Thuốc Sungin - Sao Thái Dương
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 5 gói x 2g cốm, Hộp 5 gói (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Sungin được sản xuất từ các hoạt chất Hoàng liên, Sa nhân, Mộc hương, Gừng, Bạch linh, Kha tử nhục, Nhục đậu khấu với hàm lượng tương ứng Hoàng liên 0,6 g, Sa nhân 0,6g, Mộc hương 0,6 g, Gừng 0,3 g, Bạch linh 0,6 g, Kha tử nhục 0,6 g, Nhục đậu khấu 0,6 g
Mô tả Bạch linh hoạt chất của Thuốc Sungin
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Bạch linh.
Tên gọi khác: Bạch phục linh, Phục linh.
Tên khoa học: Poria cocos Wolf.
Chi Wolfiporia, họ Polyporaceae, bộ Polyporales.
Đặc điểm tự nhiên
Bạch linh còn được gọi với tên khác là Phục linh hoặc Bạch phục linh. Vị thuốc này là nấm mọc ký sinh trên rễ cây thông. Phục linh có tên như vậy vì người ta quan niệm rằng đây là linh khí của cây thông ẩn mình dưới đất.
Về hình dáng, quả nấm Bạch Phục linh khô có nhiều dạng như hình cầu, hình thoi, hình ê líp hoặc khối không đều, kích thước thường không đồng nhất. Vỏ ngoài có màu nâu đến nâu đen và nhiều vết sần lồi lõm. Quả nấm thường khá nặng và rắn chắc. Khi bẻ ra, bên trong có thể quan sát được phần lõi khá sần sùi màu trắng, lớp viền ngoài màu nâu nhạt, một số ít quả nấm có lõi màu hồng nhạt. Nấm Bạch phục linh thường không mùi, vị nhạt, cắn dính răng.
Vị thuốc Bạch linhPhân bố, thu hái, chế biến
Phân bố: Có thể tìm thấy nấm Bạch phục linh trong một số rừng thông ở nơi có khí hậu mát mẻ của nước ta. Tuy nhiên, vị thuốc này đa phần được nuôi trồng, khai thác và chế biến chủ yếu tại Trung Quốc.
Thu hái: Thời gian thu hoạch nấm Phục linh tốt nhất là từ tháng 7 đến tháng 9. Sau khi loại bỏ đất cát, người ta chất đống cho quả nấm ra mồ hôi rồi trải ra chỗ thoáng gió để hong khô cho se bề mặt. Sau đó, họ tiếp tục chất đống và ủ vài lần cho đến khi khô nước hoàn toàn và bề mặt nhăn nheo, phơi âm can (phơi bóng râm) đến khô.
Chế biến: Trước khi dùng, người ta ngâm Phục linh vào nước, rửa sạch, đồ cho vị thuốc mềm rồi gọt vỏ, thái miếng hoặc thái lát lúc đang mềm, sau đó phơi hoặc sấy khô. Tuỳ theo bộ phận sử dụng, hình thái và màu sắc mà vị thuốc này được gọi khác nhau như:
- Bạch phục linh;
- Phục linh bì;
- Xích phục linh;
- Phục linh khối;
- Phục linh phiến.
Bảo quản: Nơi khô mát, tránh ẩm. Nếu độ ẩm không đạt tiêu chuẩn (quá khô hoặc quá ẩm) nhiệt độ quá nóng thì dược liệu có thể bị vụn nát, mất đi chất lượng và tính kết dính của nó.
Bạch linh sau khi được chế biếnBộ phận sử dụng
Thể quả nấm Phục linh được sử dụng tùy thuộc vào mục đích của bác sĩ Y học cổ truyền. Một số dạng sử dụng bao gồm:
- Bạch linh: Phần lõi bên trong nấm có màu trắng, cắt thành phiến hoặc thành khối.
- Phục linh bì: Vỏ ngoài của cả quả nấm Phục linh tách ra, chất khá xốp, có tính đàn hồi.
- Xích phục linh: Lớp thứ hai sát phần vỏ có màu hơi hồng hay nâu nhạt.
- Phục thần: Phần nấm Phục linh có rễ cây thông đi xuyên qua bên trong.
Mô tả Gừng (Thân rễ) hoạt chất của Thuốc Sungin
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Gừng (Thân rễ).
Tên khác: Khương; Sinh khương; Can khương.
Tên khoa học: Zingiber officinale Rose. hay Rhizoma Zingiberis.
Họ: Gừng (Zingiberaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Gừng là một loại cây thân thảo nhỏ, sống lâu năm, chiều cao 0,6 – 1 m. Thân rễ nạc, phân nhánh và mọc bò ngang. Lá mọc đối, không cuống, có bẹ, hình mác, dài 15 - 20cm, rộng 2cm, mặt nhẵn, gân giữa màu trắng, có mùi thơm.
Trục hoa xuất phát từ gốc, dài 20cm và rộng 2 – 3cm, lá bắc hình trứng, dài 2,5cm, mép lưng màu vàng, đài hoa dài khoảng 1cm, có 3 răng ngắn, 3 cành hoa dài khoảng 2cm, màu vàng xanh, mép cánh hoa màu tím, nhị cũng tím. Loài của cây gừng trồng ít ra hoa.
Toàn cây, nhất là thân rễ có mùi thơm và vị cay nóng.
Mùa hoa quả: Tháng 5 đến tháng 8.
Phân bố, thu hái, chế biến
Ở nước ta có thể thấy Gừng ở khắp nơi, củ Gừng có thể ăn được và dùng làm thuốc trong nước hoặc xuất khẩu.
Muốn ăn Gừng tươi (Sinh Khương) thì thường đào củ vào mùa hè và mùa thu. Cắt bỏ lá và rễ, rửa sạch. Để giữ gừng tươi lâu, phải cho vào nồi đậy kín bằng đất. Khi sử dụng đào, hãy rửa sạch chúng. Đào lấy thân rễ già trong mùa đông, cắt bỏ lá và rễ, rửa sạch và phơi nắng sẽ thu được Can khương.
Ngoài 2 loại Gừng trên dùng trong đông y, trên thị trường quốc tế người ta còn tiêu thụ 2 loại Gừng gọi là Gừng trắng và Gừng xám. Gừng xám là loại củ còn để nguyên vỏ hay cạo vỏ ở những chỗ phẳng và phơi khô. Gừng trắng là loại Gừng đã được cạo lớp vỏ ngoài có chứa nhựa dầu (oleoresin) rồi mới phơi khô. Thông thường, người ta còn ngâm Gừng già trong nước một ngày, rồi mới lấy ra cạo vỏ. Có khi người ta còn làm trắng bằng calci hypoclorid, hay xông hơi diêm sinh (SO2) hoặc ngâm nước vôi.
Bộ phận sử dụng
Thân rễ thu hái vào mùa đông có thể dùng tươi như thân rễ, phơi hay sấy khô gọi là can khương. Còn dùng tiêu khương (gừng khô thái lát dày, sao hơi vàng, vảy ít nước, đậy kín nắp rồi để nguội); bào khương (gừng khô đã chế biến); thân khương (gừng khô cắt lát dày sao cho cháy đen).
Có thể điều chế nhựa dầu gừng từ bột gừng khô với các dung môi hữu cơ, hiệu suất 4,2 - 6,5% hoặc cất tinh dầu từ gừng với hiệu suất 1 - 2,7%.
Mô tả Kha tử (Quả) hoạt chất của Thuốc Sungin
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Kha tử (Quả).
Tên khác: Cây chiêu liêu; Hạt chiêu liêu; Kha lê; Kha lê lặc…
Tên khoa học: Terminalia chebula.
Đặc điểm tự nhiên
Chiêu liêu là loài cây thân gỗ cao khoảng 15 đến 20m, vỏ màu đen nhạt kèm các vạch nứt dọc. Lá cuống rất ngắn, gần về phía cuống tròn hơi thon, phía đầu thì nhọn, dạng trứng, ở đầu cuống có hai tuyến nhỏ giống mắt cua, mọc đối. Lá có chiều dài khoảng từ 15 đến 20cm, chiều rộng khoảng từ 7 đến 15cm, khá dai, cả hai mặt có lông mềm, mặt lá sau thì nhẵn.
Hoa chiêu liêu nhỏ, màu trắng, có phủ lông vàng nhạt, dạng lưỡng tính, tỏa mùi thơm, thường mọc ở đầu cành hoặc ở kẽ lá. Quả có dạng trứng thon, chiều dài khoảng 3cm, chiều rộng từ 22 đến 25mm, với hai đầu tù, không có dìa. Quả có màu nâu vàng nhạt với có 5 cạnh dọc, khô, cứng, bên trong có thịt đen nhạt. Bên trong quả có hạch khá cứng, hình hơi 5 cạnh, có chiều dày khoảng 10 đến 15mm, có lá mầm cuốn, một hạt.
Có một loại chiêu liêu xanh (Terminalia citrina Roxb. hay Myrobalanus citrim Gaertn.) có lá dài hơn, nhẵn, kể cả khi còn non, quả thuôn và nhỏ hơn, nhân mỏng hơn, hạt hẹp hơn. Chiêu liêu xanh mọc ở Biên Hòa.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây Kha tử thường phân bố ở miền Nam nước ta, Lào, Ấn Độ, Miến Điện, Campuchia (còn gọi là Sramar), Thái Lan. Ở Trung Quốc lúc trước nhập từ Ấn Độ, về sau có thể tự trồng được ở các vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam.
Quả chín vào các tháng 9 - 10 - 11, chọn quả già chín vỏ ngoài màu vàng ngà, thịt chắc là tốt hái về phơi khô, còn loại trái non, bị lép nên tránh hái về. Theo viện Đông y Việt Nam thì Kha tử đem rửa sạch loại bỏ bụi bẩn, để thật ráo nước, sau đó sao sơ, giã dập, bỏ hạt dùng để bốc thuốc thang.
Bộ phận sử dụng
Quả.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Sungin đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này