Thuốc Phì nhi đại bổ
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 1 chai thủy tinh 80ml; Hộp 1 chai nhựa 200ml thuốc nước, Hộp 1 chai thủy tinh 80ml; Hộp 1 chai nhựa 200ml thuốc nước (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Phì nhi đại bổ được sản xuất từ các hoạt chất Sử quân tử 9g, Binh lang 9g, Nhục đậu khấu 5g, Lục thần khúc 5g, Mạch nha 4g, Hồ hoàng liên 1g, Mộc hương 1g với hàm lượng tương ứng
Mô tả Binh lang hoạt chất của Thuốc Phì nhi đại bổ
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Binh lang.
Tên khác: Hạt Cau; Đại phúc tử; Tân lang…
Tên khoa học: Areca Catechu L.
Đặc điểm tự nhiên
Cây cau là một cây sống lâu năm, thân mọc thẳng, cao độ 15 – 20 m, đường kính 10 – 15 cm, thân tròn, không chia cành, không có lá, có nhiều đốt do vết lá cũ rụng, chỉ ở ngọn mới có một chùm lá to, rộng, xẻ lông chim. Lá có bẹ to. Hoa tự mọc thành buồng, ngoài có mo bao bọc, hoa đực ở trên, hoa cái ở dưới. Hoa đực nhỏ màu trắng ngà, thơm mát. Quả hạch, hình trứng, to gần bằng quả trứng gà, lúc đầu xanh, vỏ bóng nhẵn, khi già biến thành màu vàng đỏ. Quả bì có sợi, hạt có nội nhũ xếp cuốn. Hạt hơi hình nón cụt, đầu tròn, giữa đáy hơi lõm, màu nâu nhạt, vị chát.
Dược liệu (hạt cau): Khối cứng, hình trứng hoặc hình cầu dẹt, cao khoảng 1,5 – 3,5 cm; đường kính khoảng 1,5 – 3,5 cm. Đáy phẳng, ở giữa lõm, đôi khi có một cụm xơ (cuống noãn). Mặt ngoài màu nâu vàng nhạt hoặc màu nâu đỏ nhạt với những nếp nhăn hình mạng lưới. Cắt ngang thấy vỏ hạt ăn sâu vào nội nhũ tạo thành những nếp màu nâu xen kẽ với màu trắng nhạt. Phôi nhỏ nằm ở đáy hạt.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây được trồng khắp các miền nước ta, trong đó tập trung nhiều nhất ở Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Hải Phòng. Trồng bằng quả, sau 5 – 6 năm mới thu hoạch, đó là cau nhà, còn gọi là gia tân lang, có loại cau tứ thời (cau bốn mùa), cây thấp đã có quả, ra quả quanh năm. Cau rừng (areca oleracea linn cùng họ) còn gọi là sơn tân lang, cây bé, hạt nhỏ, nhọn và chắc hơn. Vùng Nghệ An, Thanh Hóa có nhiều. Hiện nay ta thu mua cả hai loại cau nhà và cau rừng.
Mùa thu hoạch khoảng tháng 9 – 12 (không kể loại cau tứ thời) lấy quả thật già, róc bỏ vỏ ngoài và vỏ già, lấy nguyên hạt ở trong đem phơi sấy thật khô.
Chế biến: Thu hái quả chín, bổ lấy hạt. Hạt được cắt lát (binh lang phiến) hay bổ đôi, phơi hoặc sấy khô. Binh lang sao đen (tiêu binh lang): Lấy binh lang phiên, sao nhỏ lửa đến khi có màu vàng đen.
Bộ phận sử dụng
Dược liệu này là hạt già phơi hay sấy khô của cây Cau (areca catechu L.), họ Cau (arecaceae).
Mô tả Lục thần khúc hoạt chất của Thuốc Phì nhi đại bổ
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Lục thần khúc.
Tên gọi khác: Thần khúc; Tiêu thần khúc; Kiến thần khúc; Lục Đình Khúc.
Tên khoa học: Massa Fermentata Medicinalis.
Đặc điểm tự nhiên
Thần khúc lúc đầu có số vị thuốc chỉ khoảng 4 - 6 vị, sau đó tăng lên dần khoảng 30 - 50 vị thuốc, đa số những vị thuốc này đều có tinh dầu. Các vị thuốc này thường được kết hợp với các loại bột khác nhau như bột mì, bột lúa mạch hoặc cám, sau đó ủ cho lên mốc, rồi đem phơi khô. Ban đầu thần khúc được lên men để chế rượu, sau này người ta phát hiện thêm nhiều công dụng chữa bệnh khác của lục thần nên nó mới được dùng làm thuốc.
Phân bố, thu hái, chế biến
Thần khúc được ghi trong các sách cổ đến nay trải qua tầm 400 - 500 năm lịch sử đã có nhiều sự thay đổi trong công thức và cách chế biến. Vì vậy, hiện nay chúng ta cần thay đổi công thức và cách chế biến sao cho phù hợp, mặc dù tại Trung Quốc vẫn chưa có sự thống nhất trong đơn thuốc.
Mỗi cách chế biến khác nhau lại đưa đến hiệu quả điều trị khác nhau. Thời gian thích hợp để chế thuốc tốt nhất là vào mùa nóng trong năm, theo khí hậu ở Trung Quốc là khoảng từ ngày 5 tháng 5 đến ngày 20 tháng 7 âm lịch.
Công thức đầu tiên về thần khúc (ghi trong Tề dân yếu thuật): Lúa mạch 100 lít. 60 lít sao lên, 30 lít nấu chín, 10 lít để sống. Sau đó đem tán thành bột.
Đơn thuốc thần khúc sau đây bao gồm: Cây ké đầu ngựa 1 phần; Cây ngải cứu 1 phần; Lá dâu 5 phần; Ngô thù du hoặc cây nghể 1 phần. Các vị thuốc này đem nấu thật đặc, sau đó vắt lọc lấy nước rồi trộn cùng bột lúa mạch, cuối cùng đem đóng thành bánh hay ép thành khuôn.
Thời gian thực hiện khoảng từ đầu tháng 7 đến 20 tháng 7 âm lịch kết thúc là muộn nhất. Trong “bản thảo cương mục” (cân lạng được tính lại theo cân lạng mới) đơn thuốc bao gồm: Nước ép thanh cao, nước ép cây thương nhĩ và cây nghể, mỗi thứ 3 lít, bột mì 60kg, bột xích tiểu đậu, hạnh nhân giã nát, mỗi vị 3 lít. Hỗn hợp này cho bột mì vào đem trộn cho thật đều rồi ủ kín đến khi lên mốc vàng mới đem ra phơi khô.
Tuy nhiên, hiện nay các công thức thần khúc càng ngày càng phức tạp hơn, cụ thể như sau:
-
Tại các quốc doanh dược liệu Việt Nam, thần khúc gồm 22 vị thuốc đem tán thành bột, sau đó trộn chung cùng hồ nếp rồi được đóng thành bánh một khoảng 40g, cuối cùng lập tức đem phơi khô ngay để tránh bị mốc.
-
Các vị thuốc được cân lượng như sau gồm: Sơn tra 1.000g, ô dược 1.000g, thiên niên kiện 800g, quế 800g, hậu phác 800g, trần bì 800g, thanh hao 1.000g, hương nhu 1.000g, hương phụ 1.000g, thương nhĩ thảo 1.000g, bán hạ chế 700g, mạch nha, địa liên mỗi vị 200g, bạc hà, sa nhân, bạch đàn hương, tô diệp, kinh giới, thảo đậu khấu mỗi vị 600g.
-
Tại quốc doanh tỉnh Phúc Kiến – Trung Quốc, thần khúc có tới 52 vị thuốc khác nhau được chế theo đơn gia truyền của một gia đình ẩn danh nào đó từ năm 1741. Các vị thuốc này được tán thành bột, sau đó đóng thành bánh một khoảng 40g. Khác với vị thuốc thần khúc chế tại Việt Nam, tại đây thần khúc phải được đem đi ủ cho lên mốc rồi mới đem đi phơi khô.
Bộ phận sử dụng
Không tìm thấy thông tin.
Mô tả Mạch Nha hoạt chất của Thuốc Phì nhi đại bổ
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Mạch nha.
Tên khác: Mầm mạch, lúa mạch, mầm lúa.
Tên khoa học: Fructus Herdei germinatus.
Đặc điểm tự nhiên
Mạch nha là hạt lúa mạch Hordeum sativum Jess. var. vulgare Hack hoặc một loài Hordeum khác thuộc họ lúa (Poaceae) mọc mầm, rồi sấy khô ở nhiệt độ dưới độ dưới 600C.
Ở Việt Nam, mạch nha là dùng hạt thóc tẻ Oryza sativa L. var. utilissima nảy mầm rồi phơi khô.
Mạch nha có dạng hình thoi, màu vàng nhạt, trên lưng có mày bao quanh với 5 đường gân và râu dài đã gãy rụng, dài 8 – 12 mm, đường kính 3 – 4 mm. Phần bụng mạch nha có lớp mày hoa bao bọc, bóc bỏ lớp mày hoa này sẽ thấy có một rãnh dọc, phần dưới mọc ra mầm non dài 0,5 cm dài dạng mũi mác, mạch nha có mọc vài sợi rễ nhỏ. Chất cứng, bề mặt gãy màu trắng có tinh bột. Không mùi, vị hơi ngọt.
Phân bố, thu hái, chế biến
Đãi thóc tẻ hay thóc nếp sạch đất cát, ngâm nước cho đủ ẩm trong 2 đến 3 giờ, vớt ra, bỏ vào rá, đậy kín, sau đó ủ kín (có thể dùng mảnh chiếu gói lại hoặc để vào thùng đậy mảnh chiếu lên), thỉnh thoảng tưới nước để giữ ẩm đều, sau khi vài hạt thóc nảy mầm dài độ 0,5cm và thấy xuất hiện một số mầm bắt đầu xanh thì lấy ra phơi nắng cho khô, sảy hết trấu, để nguyên dùng dần hoặc tán nhỏ.
Mạch nha có thể chế biến thành cao mạch nha cần tán bột mạch nha, chiết suất bằng nước ở nhiệt độ 60oC và cô đặc ở nhiệt độ thấp dưới 600C.
Ngoài ra, mạch nha còn chế biến thành kẹo mạch nha, đem trộn mầm thóc đã phơi khô tán nhỏ vào cơm nếp hoặc cháo gạo nếp (tỷ lệ mầm thóc và gạo nếp thường dùng là: 2/10) ở nhiệt độ 60 – 700C trong vòng 6 – 12 giờ. Sau khi men đã tác dụng, lọc bỏ bã, sau đó cô đặc lại cho tới khi độ ẩm còn 8%, đây là độ ẩm có thể bảo quản tốt nhất. Lưu ý sau khi ủ cần lọc bỏ bã ngay, sau lọc cần cô đặc ngay vì nếu nhiệt độ xuống dưới 60 – 700C kẹo sẽ bị chua.
Bộ phận sử dụng
Hạt lúa mạch nảy mầm, rồi sấy khô ở nhiệt độ dưới độ dưới 600C.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Phì nhi đại bổ đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này