Thuốc Bát vị f - Fito Pharma
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: hộp 40 viên, 100 viên (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Bát vị f được sản xuất từ các hoạt chất thục địa, hoài sơn, sơn thù, đơn bì, trạch tả… với hàm lượng tương ứng
Mô tả Hoài Sơn hoạt chất của Thuốc Bát vị f
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Hoài sơn.
Tên khác: Sơn dược; Khoai mài; Củ mài; Chính hoài.
Tên khoa học: Dioscorea persimilis, họ Dioscoreaceae (Củ Nâu).
Đặc điểm tự nhiên
Củ mài là cây dạng dây leo, thân củ; mỗi củ của củ mài có thể dài lên đến 1m, đường kính củ 2 - 10cm, xung quanh củ với rất nhiều rễ con. Thân leo góc cạnh nhẵn không có lông, những nách là có củ còn được gọi là “thiên hoài” hay “dái củ mài”. Lá củ mài dạng lá đơn, mọc so le hoặc mọc đối, lá hình trái tim đầu lá nhọn. Phiến lá dài từ 8 - 10cm, rộng khoảng 6 -8cm, cuống lá dài khoảng 1,5 - 3,5cm. Hoa củ mài đực cái mọc khác gốc, quả khô có ba cạnh. Hoa củ mài xuất hiện vào khoảng tháng 7 - 8, quả xuất hiện vào khoảng tháng 9 - 11.
Phân bố, thu hái, chế biến
Củ mài được tìm thấy khắp những vùng núi nước ta, cây mọc hoang; vào những thời kỳ trước khi còn khó khăn người dân vẫn đi đào củ mài để sử dụng làm lương thực ăn chóng đói. Củ mài được tìm thấy nhiều nhất tại các tỉnh miền Bắc nước ta như: Hà Bắc, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đến ngày nay, củ mài đã được trồng để chế hoài sơn - dược liệu trong các bài thuốc. Mùa thu hoạch củ mài chất lượng tốt nhất vào mùa thu đông và đầu xuân (khoảng từ tháng 10 - 11 đến tháng 3 - 4). Sau khi thu hoạch củ mài, muốn có vị thuốc hoài sơn phải chế biến theo các bước như sau:
Củ mài sau khi thu hoạch về, sơ chế rửa sạch đất, gọt sạch vỏ rồi cho vào lò sấy diêm sinh trong hai ngày hai đêm, sau khi sấy lấy ra phơi khô thu được hoài sơn. Nhưng nếu muốn xuất khẩu thì hình dáng phải đẹp hơn nên công đoạn chế biến phức tạp hơn.
Củ mài sau khi thu hoạch về trong vòng 3 ngày phải chế biến ngay vì để lâu sẽ bị hư. Chế biến củ mài trải qua 3 giai đoạn:
Sấy diêm sinh lần thứ nhất:
Củ mài thu hoạch về sơ chế, gọt vỏ sau đó đem đi diêm sing (110kg củ mài tương đương dùng 2kg diêm sinh). Sắp xếp củ mài trong lò sấy thành hình cũi lợn để tất cả các củ đều được tiếp xúc với hơi diêm sinh. Ủ một đêm sau khi sấy diêm sinh 2 ngày 2 đêm, sau đó phơi với nắng nhỏ hoặc sấy nhẹ cho khô. Tiếp tục đem ngâm nước 2 ngày 2 đêm rửa sạch, đem phơi nắng cho khô.
Sấy diêm sinh lần thứ hai:
Tiếp tục sấy diêm sinh lần thức 2, sắp xếp hoài sơn vào lò tương tự như sấy diêm sinh lần 1, tiếp tục sấy diêm sinh 1 ngày 1 đêm (100kg củ mài dùng 1kg diêm sinh), cho đến khi củ mài mềm như chuối, nếu thấy chưa mềm thì tiếp tục sấy diêm sinh lại. Sau khi sấy xong, tiếp tục ủ trong 1 đêm, sau đó đem sửa chữa lại cho đều đặn bằng cách đặt lên ván lăn, lăn đến khi hai đầu củ mài lõm vào. Sau khi sửa xong, tiếp tục đem phơi nắng nhỏ hoặc sấy nhẹ cho khô; sửa lại lần nữa cho thật đẹp rồi lăn cho nhẵn bóng. Cuối cùng phơi lại cho thật khô. Đánh cho bóng bằng giấy ráp bằng cánh nhúng nhanh vào nước rồi đánh bóng.
Sấy diêm sinh lần thứ ba:
Sấy diêm sinh lần thứ ba, cứ 100kg củ mài dùng 200g diêm sinh, trước khi tiến hành sấy diêm sinh cần phân loại củ mài thành nhiều hạng khác nhau. Thời gian sấy diêm sinh lần thứ 3 là 1 ngày 1 đêm.
Đối với hoài sơn hạng nhất: 0,5kg hoài sơn tương đương 4 khúc.
Đối với hoài sơn hạng hai: 0,5kg hoài sơn tương đương 6 khúc.
Đối với hoài sơn hạng ba: 0,5kg hoài sơn tương đương 8 khúc.
Đối với hoài sơn hạng bốn: 0,5kg hoài sơn tương đương 10 khúc.
Đối với hoài sơn hạng năm: 0,5kg hoài sơn tương đương 12 khúc.
Đối với hoài sơn hạng sáu: 0,5kg hoài sơn tương đương 14 khúc.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được là rễ củ.
Mô tả Sơn thù (Quả) hoạt chất của Thuốc Bát vị f
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Sơn thù (Quả).
Tên gọi khác: Sơn thù du, Sơn du nhục, Táo bì.
Tên khoa học: Fructus Corni officinalis. Thuộc họ Sơn thù (tên khoa học là Cornaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Loại cây nhỏ sống lâu năm, cao khoảng 4m, vỏ xám nâu, cành nhỏ không có lông, lá đơn, mọc đối, có cuống ngắn, đầu nhọn, đáy tròn, mép nguyên có 5 - 7 đôi gân phụ. Hoa nở trước lá, mọc thành tán, hoa nhỏ có màu vàng. Quả hình trái xoan, khi chín có màu đỏ tươi, nhẵn, khi phơi khô nhăn nheo hình mạng, mùa hoa tháng 5 - 6, mùa quả tháng 8 - 10.
Phân bố, thu hái, chế biến
Sơn thù hiện nay đa số là nhập chủ yếu từ Trung Quốc.
Phân bố chủ yếu ở các tỉnh Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Đông, An Huy, Triết Giang, Tứ Xuyên.
Tại nước ta, một số người dùng thịt quả táo hay táo chua thay cho sơn thù nhưng thực tế cả hai cây khác xa về thực vật.
Bộ phận sử dụng
Quả khô của cây sơn thù được thu hái lúc vỏ ngoài chuyển sang màu đỏ, nhúng vào nước sôi ít phút, lấy thịt bỏ hạt, rồi làm khô.
Mô tả Trạch tả hoạt chất của Thuốc Bát vị f
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cây trạch tả.
Tên khác: Cây mã đề nước, mad-dog weed (Anh), alisma, common water plantain, plantain d’eau (Pháp).
Tên khoa học: Alisma plantago-aquatica L. var. Orientalis Samuelsson. Thuộc họ Trạch tả Alismataceae.
Cây trạch tả trong tự nhiênĐặc điểm tự nhiên
Cây trạch tả là một loại cây thảo nhỏ, cao khoảng 40 - 50cm. Thân rễ của cây có hình dạng cầu hoặc con quay, màu trắng, nạc. Các lá của cây có cuống dài, bè to mọc ốp vào nhau và xoè ra giống như hình hoa thị. Phiến lá của cây có hình trái xoan hoặc hình trứng, với mép lá nguyên và lượn sóng. Kích thước của lá khoảng 5 - 7 hình cung.
Cụm hoa của cây trạch tả mọc trên một cáng thẳng dài, có thể đạt đến 1m thành chuỳ có nhiều vòng hoa xếp thành tầng nhỏ dần về phía ngọn, mỗi tầng lại phân nhánh thành những chuỳ nhỏ. Hoa lưỡng tính, có thể có màu trắng hoặc hồng. Đài hoa có 3 răng màu lục và tồn tại cho đến khi thành quả. Tràng hoa có 3 cánh có một cựa màu vàng nhạt, rất mỏng và rụng sớm. Nhị 6 - 9, dẹt, bầu nhiều ô xếp thành một vòng, mỗi ô chứa một noãn, vòi nhuỵ mảnh dễ rụng.
Quả của cây có hình bế, dạng màng, và vẫn còn đài tồn tại.
Mùa hoa quả: Tháng 10 đến tháng 12.
Lá và hoa của cây trạch tảPhân bố, thu hái, chế biến
Phân bố
Chi Alisma L. có khoảng 10 loài, phân bố rải rác từ vùng nhiệt đới đến vùng cận nhiệt đới và ôn đới ấm. Hiện đã biết có 2 loài được dùng làm thuốc là trạch tả (Alisma plantago-aquatica L.) và loài A canaliculatum Braun et Bouché có ở Triều Tiên.
Cây trạch tả có nhiều ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Đi đôi với quần thể trạch tả trồng ở nhiều điểm thuộc các nước trên, người ta còn tìm thấy cây mọc tự nhiên trên các vùng ruộng hoặc ao hồ. Ở Việt Nam, trạch tả chỉ thấy trồng ở các tỉnh miền Bắc như Thái Bình, Hà Tây, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên. Về nguồn gốc của cây trạch tả, không rõ được thuần hoá từ cây mọc từ tự nhiên hay lấy giống từ nước ngoài.
Trạch tả là cây thuỷ sinh, có phần thân rễ sống ngập trong bùn, toàn bộ phần thân lá vượt khỏi mặt nước. Vì vậy, chiều dài của lá (cuống lá là chính) phụ thuộc vào mức độ bị ngập nước. Hoa trạch tả phải ở trên mặt nước mới thụ phấn được. Cây tái sinh chủ yếu từ hạt, phát tán nhờ nước. Sau mùa hoa quả, phần trên mặt nước tàn lụi.
Thu hái và chế biến
Cây trạch tả được thu hái một năm 2 vụ: Vụ tháng 6 và vụ tháng 12 (nếu không lấy giống thì cắt bỏ hoa cho to củ). Nhổ cả cây, lấy củ, cắt thân lá, gọt sạch rễ con, rửa sạch đất cát, sấy nhẹ, hay phơi khô, khi dùng thái phiến dầy 1 - 3mm. Nếu củ khô cứng quá thì phải ngâm, ủ mềm rồi thái, phơi khô.
Trạch tả sao vàng: Đem phiến trạch tả sao nhỏ lửa đến khi toàn bộ bề mặt hơi vàng.
Trạch tả trích muối: Chuẩn bị trạch tả 10kg, muối 300kg. Đem muối hoà thành dung dịch, đủ để tẩm vào trạch tả, ủ 30 phút cho ngấm hết. Sao nhỏ lửa tới bề mặt hơi vàng hoặc vàng đậm. Có thể sao trạch tả tới vàng, rồi phun dung dịch muối vào. Tiếp tục sao đến khô.
Vị thuốc trạch tảBộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được của cây trạch tả là thân rễ.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Bát vị f đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này