Hoa ngũ sắc


Tìm hiểu chung

Tên gọi, danh pháp

Tên Tiếng Việt: Bông ngũ sắc.

Tên khác: Bông ngũ sắc còn được gọi là bông ổi, thơm ổi, ổi nho, trâm anh, trâm ổi, bông hôi, tứ thời, tứ quý, cây hoa cứt lợn, mã anh đơn, nhá khí mu (Tày).

Tên khoa học: Lantana camara L.. Thuộc họ Cỏ roi ngựa Verbenaceae.

Bông ngũ sắc

Đặc điểm tự nhiên

Bông ngũ sắc là một loại cây bụi ngắn, khoẻ mạnh, mọc dày đặc thành bụi cây trong tự nhiên, có thân hình tứ giác, cao 2 - 4m

Lá hình trứng (hình bầu dục), mép có răng cưa, hơi nhọn, mặt trên xù xì và có lông ở cả hai mặt. Lá dài trung bình 3 - 8cm và rộng 3 - 6cm và có màu xanh lục. Lá và thân đều có lớp lông gai.

Các cụm hoa ở nách lá đối diện, nhỏ gọn, hình vòm có chiều ngang 2 - 3cm và chứa 20 - 40 hoa không cuống.

Hoa của bông ngũ sắc nhỏ, có màu vàng hoặc cam, chuyển sang màu đỏ hoặc đỏ tươi ở các đầu nách dày đặc. Hoa nhỏ mọc thành chùm. Đài hoa nhỏ, ống tràng mảnh, cành xòe rộng 6 - 7mm và chia thành các thùy không đều nhau. Nhị hoa gồm bốn cặp, trong đó có hai noãn, hai tế bào. Cây ra hoa ra từ tháng 8 đến tháng 3, hoặc quanh năm nếu có độ ẩm và ánh sáng thích hợp. Màu sắc thường là màu cam, đôi khi thay đổi từ trắng sang đỏ với nhiều sắc thái khác nhau và hoa thường thay đổi màu sắc khi già đi.

Quả chín được chim ăn nhiều và thường xuyên được con người ăn ở một số quốc gia.

Hệ thống rễ của loại cây này rất khỏe và thậm chí sau khi cắt nhiều lần nó vẫn sẽ cho ra những chồi tươi mới.

Lá, hoa và cành của bông ngũ sắc.

Phân bố, thu hái, chế biến

Trước đây bông ngũ sắc được tìm thấy chủ yếu ở Trung và Nam Mỹ, tuy nhiên nó đã được nhập vào ở khoảng 60 quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới. Ngày nay, bông ngũ sắc được tìm thấy thường xuyên ở Đông và Nam Phi, nơi nó xuất hiện ở độ cao dưới 2000m và thường xâm chiếm các khu vực như rừng bị chặt phá và các khu vực bị chặt phá để làm nông nghiệp.

Ngoài Châu Phi, nó còn xâm chiếm các khu vực Nam Âu như Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, Trung Đông, Ấn Độ, Châu Á, Úc, New Zealand, Hoa Kỳ cũng như nhiều quần đảo Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Phạm vi của bông ngũ sắc phân bố vẫn đang gia tăng, thể hiện qua việc nó đã xâm chiếm nhiều hòn đảo mà nó không có mặt vào năm 1974 (bao gồm Quần đảo Galapagos, Saipan và Quần đảo Solomon).

Tại Việt Nam, cây được trồng làm cảnh và mọc dại. Toàn thân cây toả ra một mùi đặc biệt có người ưa dùng nhưng cũng có người không ưa.

Lá và cành được dùng làm thuốc, hái về phơi hay sấy khô.

Bông ngũ sắc tại Việt Nam được trồng làm cây cảnh và mọc dại

Bộ phận sử dụng

Bộ phận sử dụng được của bông ngũ sắc là lá, cành mang lá và hoa.

Thành phần hoá học

Lá bông ngũ sắc chứa 0.2% tinh dầu với các hợp chất sesquiterpen, có thể là caryophylen và L - - phelandren (10 - 12%).

Lá còn chứa các chất triterpen, acid oleanolic, lantaden A, lantaden B, lantaden C, acid lantanolic, icterogenin, acid 22 - - acetoxylantic, acid lantic, acid 22 - dimethylacryloyl - oxylantanolic, 5 - glycosid phenylpropanoid verbascosid, isoverbacosid, deramnosyl - verbacosid, isonuomiosid A và calceolariosid E, 2 flavonoid glycosid camarosid (4’, 5 - dihydroxy - 3, 7 - dimethoxyflavon - 4’-O--D - glucopyranosid) và pectolinarigenin - 7-O- - glucosid).

Hai đồng phân lantaden A và B có độc.

Thân cây chứa 9 hợp chất triterpen là hỗn hợp - amyrin và - amyrin, acid oleanolic, acid 3 - acetoxyolean - 12 - en - 28 - oic, lantaden A, lantaden B, acid betulinic, acid oleanonic, acid pomolic và một số hợp chất khác campestrol, stigmasterol và - sitosterol.

Rễ chứa 6 oligosaccharid và 6 iridoid glucosid được nhận dạng là stachyose, verbaseose, ajugose, verbascotetraose, lantanose A, lantanose B, thevesid, 8 - epiloganin, shanzhisid Me ester, theviridosid, lamiridosid và geniposid.

Rễ còn chứa 8 triterpenoid là acid lantanolic, acid 22 - O - angeloyl - lantanolic, acid oleanolic, acid 22 - O - angeloyl oleanolic, acid 22 - O - senecioyloleanolic, acid 22 - hydroxyoleanonic, acid 19 - hydroxyursolic.

Rễ là nguồn cung cấp acid oleanolic (2%).

Toàn cây có hederagenin, acid 25 - hydroxy - 3 - oxoolean - 12 - en - 28 - oic, umuhengenin (5 - hydroxy - 6,7,3’,4’,5’ - pentamethoxyflavon).

Hoa chứa 0.07% tinh dầu.

Hạt chứa 9% dầu béo trong đó có các acid béo: Acid linoleic, acid oleic, acid steatic, acid palmitic.

Thành phần hoá học được chiết xuất từ bông ngũ sắc rất đa dạng

Liều dùng & cách dùng

Lá ngũ sắc hỗ trợ chữa táo bón, sốt, làm ra mồ hôi, viêm phế quản xuất tiết. Ngày 20 - 30g cây tươi, sắc uống.

Dùng ngoài đắp vết thương, lở loét hoặc cầm máu. Còn dùng lá giã đắp hoặc nấu nước để rửa chữa ghẻ lở, viêm da, các vết chàm. Lá chườm nóng hỗ trợ chữa thấp khớp.

Hoa làm giảm triệu chứng ho, lao kèm ho ra máu và cao huyết áp. Ngày dùng 12g.

Rễ trị sốt lâu không dứt, quai bị, phong thấp, đau xương, đau răng, chấn thương bầm dập, khí hư. Ngày 30 - 60g cây tươi, sắc uống.

Tuỳ thuộc vào loại bệnh cần chữa mà bộ phận dùng và liều lượng của bông ngũ sắc sẽ khác nhau

Lưu ý

Một số lưu ý khi sử dụng bông ngũ sắc:

  • Bông ngũ sắc không có tác dụng chữa viêm xoang mũi như cây cứt lợn Ageratum conyzoides. Chú ý tránh dùng lầm.
  • Động vật ăn cỏ nếu ăn lá và ngọn cây ngũ sắc với liều 10g/kg sẽ bị ngộ độc với triệu chứng: Chán ăn, táo bón, vàng da và nhạy cảm với ánh sáng. Cơ quan biểu hiện ngộ độc nặng nhất là gan, gây ứ mật. Lantaden A và C, các hợp chất triterpenoid pentacyclic có trong lá là loại hoạt chất chính gây độc cho gan.

Bài thuốc kinh nghiệm

Ho ra máu, phổi kết hạch, lao phổi

Bông ngũ sắc phơi khô 6 – 10g hoặc để cây tươi 15 – 20g, nấu nước, hãm hoặc chế siro uống.

Chữa đái tháo đường

Toàn cây bỏ rễ 40g sắc uống thay chè. Ngoài ra, ăn thêm củ mài, củ súng hoặc bột thiên hoa phấn, ngày 10g.

  • Battase L, Attarde D. PHYTOCHEMICAL AND MEDICINAL STUDY OF LANTANA CAMARA LINN. (VERBENACEAE) - A REVIEW. Asian Journal of Pharmaceutical and Clinical Research. 2021:20-27. doi:10.22159/ajpcr.2021.v14i9.42444.
  • Lantana camara: https://www.inaturalist.org/guide_taxa/495182
  • Lantana camara: http://projects.nri.org/options/background/plants-database/lantana-camara
  • Đỗ Huy Bích; Đặng Quang Chung. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam tập I. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội; 2006.
  • Đỗ Tất Lợi. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội; 2006.
  • Gọi Tư Vấn Miễn Phí Chat nhanh đặt hàng Chat với Dược Sĩ