Chè vằng
Thuốc Bitabet - Dược phẩm Hà Tây
Tìm hiểu chung
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Chè vằng.
Tên khác: Vằng; chè cước man; cẩm văn; cẩm vân; dây vắng; lài ba gân; mỏ sẻ; mỏ quạ;...
Tên khoa học: Jasminum subtriplinerve Blume.
Họ: Nhài (Oleaceae).
Nhiều người gọi nhầm cây chè vằng là cây lá ngón, tuy nhiên một cây có hoa vàng (cây lá ngón thật) khác với một cây kia hoa trắng (cây chè vằng). Ngoài ra còn một số điểm khác cần chú ý để tránh nhầm lẫn giữa hai loài cây này.
Đặc điểm tự nhiên
Cây chè vằng là một cây nhỏ, mọc thành bụi ở bụi tre hay bờ rào hoặc bám vào các cây lớn. Thân cây cứng, chia thành từng đốt, đường kính khoảng 5 – 6 mm, chia thành nhiều cành, có thể vươn cao khoảng 1 - 1,5 mm và vươn dài tới 15 – 20 m, thân và cành đều nhẵn.
Lá mọc đối, hình mũi mác, phía cuống tù hoặc hơi tròn, đầu lá nhọn dài khoảng 4 - 7,5 cm, rộng 2 - 4,5 cm, những lá phía trên nhỏ hơn lá phía dưới, mép nguyên, trên lá có 3 gân rõ rệt. Cuống lá nhẵn, dài khoảng 3 – 12 mm.
Hoa chè vằng mọc thành xim nhiều hoa (chừng 7 - 9 hoa), cánh hoa có màu trắng. Quả hình cầu, đường kính khoảng 7 - 8 mm (bằng hạt ngô). Khi chín quả có màu vàng, bên trong quả có một hạt rắn chắc. Mùa hoa quả là tháng 7 - tháng 10.
Phân bố, thu hái, chế biến
Chè vằng phân bố khá tập trung và phổ biến ở khu vực các nước Đông Nam Á và Nam Á. Ngoài ra, cây cũng còn được bắt gặp cả ở các tỉnh phía nam Trung Quốc và đảo Hải Nam. Ở Việt Nam, Chè vằng mọc rải rác ở hầu hết các tỉnh thuộc vùng núi thấp, trung du, đồng bằng. Chưa ghi nhận cây mọc ở vùng núi cao trên 1500 m.
Trong 30 loài thuộc chi Jasminum L. ở Việt Nam, có 8 loài được dùng làm thuốc. Trừ loài hoa nhài, 7 loài còn lại đều thuộc nhóm dây leo hoặc cây mọc dựa, thường có tên gọi chung là “Vằng” hay “Chè vằng”. Nhìn chung, nguồn trữ lượng Chè vằng ở Việt Nam tương đối dồi dào. Việc thu hái cành lá hàng năm không làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của cây.
Chè vằng là cây ưa sáng, ưa ẩm và có thể hơi chịu bóng, nhất là thời kỳ cây con, thường mọc lẫn trong các lùm bụi ở ven đồi, bờ nương rẫy và quanh bản làng. Cây mọc nơi đất ẩm thường sinh trưởng mạnh hơn cây ở vùng khô hạn. Chỉ có những cây mọc trùm lên các cây bụi khác và được chiếu sáng đầy đủ mới có thể thấy có nhiều hoa quả. Trong tự nhiên, người ta thường gặp nhiều cây con mọc từ hạt xung quanh gốc cây mẹ. Dù bị chặt phá nhiều lần, phần thân, cành còn lại của cây đều có khả năng tái sinh nhiều chồi sau đó.
Chè vằng chưa được trồng với quy mô lớn, chỉ mới được trồng phân tán ở các gia đình để làm hàng rào, ở các vườn thuốc của trường học, trạm y tế xã, bệnh viện, các cơ quan nghiên cứu để làm thuốc, nghiên cứu và giảng dạy. Cây không kén đất và có khả năng chịu hạn tốt, ít bị sâu bệnh.
Chè vằng chủ yếu nhân giống bằng hạt. Hạt gieo vào khoảng tháng 2 - 3 hoặc tháng 8 - 9. Ngoài ra, cũng có thể thu gom cây con mọc tự nhiên xung quanh gốc chè vằng để đem trồng. Còn có thể tách khóm hay dùng cành để nhân giống vào mùa xuân, đây là thời vụ tốt nhất. Chè vằng được trồng theo hốc. Vào mùa xuân, đào các hốc cách nhau 1 - 1,2 m, mỗi hốc bón lót một ít phân chuồng, sau đó tiến hành gieo hạt, đặt cây con hoặc hom giống.
Cây Chè vằng sống nhiều năm, thu hoạch thường xuyên. Sau mỗi lần thu hoạch, cần bón thúc thêm phân, làm cỏ và xới xáo.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận dùng của Chè vằng là cành lá, thu hái quanh năm, phơi khô.
Thành phần hoá học
Lá Chè vằng chứa alcaloid, flavonoid và nhựa (Nguyễn Thị Ninh Hải, Luận án Tiến sĩ Dược học 1986).
Liều dùng & cách dùng
Nhân dân nhiều tỉnh dùng lá Vằng phơi khô nấu hoặc pha nước uống hằng ngày, hoặc cho phụ nữ sau khi sinh uống nhằm đem lại tác dụng lợi sữa và phòng các nhiễm khuẩn sau đẻ. Cũng có nơi dùng lá nấu nước tắm cho trẻ con để trị ghẻ lở.
Tại Miền Nam, nhân dân dùng lá chữa sưng vú cho phụ nữ mới sanh nở uống, và chữa rắn cắn. Rễ được mài với dấm thanh để làm hết mủ những ung nhọt đã nung mủ. Liều uống hằng ngày là khoảng 20 – 30 g lá khô; nếu dùng ngoài thì không kể liều lượng.
Chè vằng dùng để điều trị kinh nguyệt không đều, bế kinh hoặc khi thấy kinh đau bụng, sau khi đẻ bị nhiễm khuẩn sốt cao, viêm hạch bạch huyết, viêm tử cung và tuyến vú, khí hư bạch đới, áp xe vú. Còn dùng trị phong thấp do huyết kém, đau nhức khớp xương, ghẻ lở, vàng da, chốc đầu, các bệnh ngứa ngoài da, rắn cắn. Ngày dùng khoảng 40 – 100g cây tươi hoặc 20 – 30g dược liệu khô dưới dạng thuốc sắc hay nấu nước tắm, liều lượng không hạn chế.
Kinh nghiệm dùng lá Chè vằng để trị bệnh của bệnh viện Thái Bình: Dùng lá Chè vằng giã nát, rồi đắp vào nơi áp xe. Ngày đắp 3 lần, đêm đắp 2 lần. Thời gian điều trị thông thường là từ 1 ngày đến 1 tuần tùy theo tình trạng bệnh và thời gian bắt đầu chữa bằng lá chè vằng. Trung bình khoảng 1,5 – 2 ngày. Bệnh nhân điều trị bằng Chè vằng thường sẽ hết sốt sau 2 giờ dùng thuốc, sau khi khỏi bệnh thì công thức máu và số lượng bạch cầu trở lại bình thường, sữa cũng trở lại bình thường.
Lưu ý
Khi sử dụng Chè vằng cần lưu ý tránh nhầm lẫn chè vằng với lá ngón (Jasminum anastomosans Wall.) vì cả hai loài rất giống nhau ở dáng cây. Đã ghi nhận trường hợp hái nhầm và dùng bị ngộ độc chết người.
Bài thuốc kinh nghiệm
Chữa phụ nữ kinh nguyệt không đều, bế kinh, đau bụng
Chè vằng 20g, hy thiêm 16g, ích mẫu 16g, ngải cứu 8g, bạch đồng nữ 8g, nước 500ml. Sắc đến khi còn 300ml, uống làm 3 lần trong ngày.
Chữa sưng vú, vết thương
Chè vằng 30g, sắc uống hoặc giã cây tươi đắp ngoài.
Chữa áp xe vú
Lá chè vằng tươi đem giã nát dùng riêng hoặc trộn với cồn 50° đắp vào nơi áp xe. Ban ngày đắp 3 lần, ban đêm 2 lần.
Chữa vàng da
Chè vằng, ngấy hương, mỗi vị 20g, sắc uống, mỗi ngày một thang thuốc.
Thuốc nhuận gan
Chè vằng 12g, nhân trần 20g; lá mua, chi tử, vỏ núc nác, lá bồ cu, rau má, vỏ đại, mỗi vị 12g; thanh bì 8g. Sắc uống mỗi ngày một thang thuốc.