Thuốc Vui - Vạn Xuân
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 10 gói x 10g thuốc cốm (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Vui được sản xuất từ các hoạt chất Đảng sâm, đỗ trọng, hà thủ ô đỏ, gạc hươu, nhục thung dung, ba kích, bạch truật, cam thảo, thỏ ty tử, viễn chí, tục đoạn, đương quy, cá ngựa với hàm lượng tương ứng 1g, 1g, 1g, 0,4g, 0,36g, 0,3g, 0,3g, 0,3g, 0,3g, 0,3g, 0,3g, 0,2g, 0,1g
Mô tả Bạch truật (Thân rễ) hoạt chất của Thuốc Vui
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Bạch Truật.
Tên khác: Truật; Truật sơn kế; Sơn khương; Sơn giới; Sơn liên; Dương phu; Phu kế; Mã kế; Thiên đao; Sơn tinh; Ngật lực già; Triết truật; Bạch đại thọ; Sa ấp điều căn; Ư truật; Sinh bạch truật; Sao bạch truật; Thổ sao bạch truật; Mễ cam thủy chế bạch truật; Tiêu bạch truật; Ư tiềm truật; Dã ư truật; Đông truật.
Tên khoa học: Atractylodes macrocephala Koidz. Thuộc họ Asteraceae (Cúc).
Đặc điểm tự nhiên
Bạch truật là cây lâu năm.
Lá mọc so le, cuống lá dài, phiến lá chia làm 3 thùy. Các lá gần ngọn thì không chia thùy và có cuống ngắn hơn. Mép lá có răng cưa.
Hoa màu trắng mọc thành cụm và có bao tổng bên ngoài. Bao tổng gồm có 7 lớp nhìn như ngói lợp nhà. Cánh hoa màu trắng phía dưới và tím đỏ ở phía trên.
Rễ Bạch truật phát triển thành củ to và được dùng làm thuốc.
Phân bố, thu hái, chế biến
Bạch truật phân bố nhiều ở Trung Quốc, sau này được trồng rộng rãi tại Việt Nam. Bạch truật có thể thích nghi ở vùng khí hậu núi cao và cả vùng đồng bằng nóng ẩm.
Bạch truật được trồng ở nơi khí hậu núi cao lạnh chủ yếu để nhân giống, có thể thu hoạch sau 2 - 3 năm. Khi trồng ở vùng đồng bằng thì thời gian thu hoạch ngắn hơn, chỉ khoảng 10 - 12 tháng.
Thu hái Bạch truật vào mùa tháng 10 âm lịch. Khi quan sát thấy lá ở phần gốc cây úa vàng thì có thể đào lấy củ.
Củ Bạch truật sau khi đào được rửa sạch, loại bỏ rễ con. Bạch truật có thể được phơi khô nguyên củ hoặc thái lát mỏng rồi phơi khô (sinh sái thuật hoặc gọi là đông truật), nếu sấy khô thì gọi là hồng truật.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận dùng của Bạch truật là thân rễ.
Mô tả Cá ngựa hoạt chất của Thuốc Vui
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Cá ngựa, Hải mã; Hải long; Thủy mã.
Tên nước ngoài: Horse - fish, Sea- horse (Anh); Hippocampe, Cheval - marin (Pháp).
Tên khoa học: Hippocampus spp. Họ: Cá chìa vôi (Syngnathidae).
Đặc điểm tự nhiên
Ở Việt Nam có rất nhiều loài Cá ngựa với nhiều kích thước và màu sắc khác nhau.
-
Các loài đều có những đặc điểm chung: Thân dẹt về bên, khá dày, cấu tạo bởi các đốt xương hình nhẫn, dài từ 15 - 20cm, có tới tới 30cm. Đầu giống đầu ngựa nằm ngang, vuông góc với thân hoặc cong xuống, trên đỉnh có gai. Mõm dài hình trụ, miệng nhỏ, mắt to, lưng võng có vây lớn, bụng phình to không có vây, vây ngực nhỏ, vây hậu môn rất bé. Cá ngựa đực có một cái túi ở bụng để hứng trứng do cá cái đẻ vào khiến nhiều người nhầm lẫn chúng là cá cái. Đuôi dài, xoắn tròn về phía trước, không có vây. Cá ngựa khá đa dạng về màu sắc, thường gặp cá ngựa màu vàng, trắng, vàng - nâu, đôi khi có pha đỏ và xanh đen nhạt. Khi bơi lượn trong nước màu sắc của chúng thay đổi rất đẹp.
-
Dù to, nhỏ hay màu sắc nào cũng dùng để làm thuốc được, nhưng người ta cho rằng Cá ngựa màu trắng hay màu vàng dùng làm thuốc là tốt hơn cả.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cá ngựa sống ở các vùng biển, vịnh, ven bờ ở độ sâu từ vài mét đến hàng chục mét và được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, Cá ngựa thường gặp ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An và ven biển các tỉnh phía Nam từ Quảng Nam, Đà Nẵng đến Kiên Giang, nhiều nhất ở Vịnh Hạ Long, Bình Thuận, Khánh Hòa. Cá ngựa bơi thẳng đứng và bám vào thực vật hoặc san hô bằng đuôi, ăn động vật nhỏ di động và thực vật thủy sinh. Cá ngựa di chuyển chậm và để tránh kẻ thù thì chúng thường ẩn mình trong thảm cỏ biển, rạn đá, rạn san hô. Mùa Cá ngựa sinh đẻ vào khoảng tháng 3 đến tháng 7.
Các loài được tìm thấy là Cá ngựa vàng (Cá ngựa lớn, đại hải mã - Hippocampus kuda Bleeker.), Cá ngựa trắng (Hippocampus kelloggi Jordan et Snyder), Cá ngựa đốm (cá ngựa ba khoang hay ba chấm, tam ban hải mã - Hippocampus trimaculatus Leach), Cá ngựa gai (Hippocampus brevirostris), Cá ngựa Nhật Bản (Hippocampus japonicus Kaup.), Cá ngựa mõm ngắn (Hippocampus brevirostris), Cá ngựa Úc (Hippocampus phylloperexeques). Mùa đánh bắt cá thường là tháng 8 đến tháng 9. Ngư dân không tổ chức đánh bắt Cá ngựa riêng biệt mà chúng thường được kết hợp khi đánh bắt các loài hải sản khác.
Hai loài được khai thác nhiều nhất là Cá ngựa gai và Cá ngựa ba khoang, hàng năm thu hoạch được khoảng 24 tấn cá ngựa khô trên cả nước. Các nhà nghiên cứu ước tính rằng khoảng 20 triệu con cá ngựa được tiêu thụ cho mục đích y học và được nuôi làm thú cưng trên toàn thế giới mỗi năm. Một số quốc gia như Australia, Ấn Độ, Argentina và Philippines có chương trình nuôi Cá ngựa. Từ năm 1992 đến năm 1994, hai tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận đã phối hợp phát triển nghiên cứu nuôi Cá ngựa.
Tại Viện Hải Dương học Nha Trang đã thành công trong việc thuần hóa, nuôi Cá ngựa ăn thức ăn chết thay thế cho thức ăn sống và đã thả vài chục nghìn Cá ngựa con ra biển để khôi phục và bảo vệ loại động vật tự nhiên này hiện đang bị suy giảm.
Chế biến: Cá sau khi bắt về đem rửa sạch, mổ bụng, bỏ ruột, uốn đuôi cho cong rồi phơi hay sấy khô. Có người còn dùng bàn chải để chải sạch lớp da sẫm màu bên ngoài và rửa sạch trước khi mổ cá hoặc ngâm cá trong rượu hồi hoặc rượu quế trong một thời gian, sau đó phơi khô hoặc sấy khô. Dược liệu cá ngựa dài, dẹt và cong, phần giữa to, mặt ngoài màu trắng ngà hoặc màu vàng nâu. Toàn thân có các đốt vân nổi và nhô lên ở dọc lưng, bụng và hai bên sườn như gai. Đầu nghiêng xuống hoặc hơi duỗi, phần trên đầu có khối u lồi, hai mắt lõm sâu. Đuôi thuôn và cuộn dần vào trong. Nguyên liệu to, màu sắc đồng đều, còn nguyên đầu và đuôi là loại đạt chất lượng tốt.
Bộ phận sử dụng
Cả con Cá ngựa.
Mô tả Cam thảo hoạt chất của Thuốc Vui
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cam thảo.
Tên khác: Lộ thảo, Cam thảo bắc.
Tên khoa học: Glycyrrhiza uralensis Fisch. Đây là một loài thực vật thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thảo sống lâu năm, cao 30 - 100 cm. Rễ dài màu vàng nhạt. Cơ thể có lông ngắn, mềm. Lá mọc so le, kép, có lông chim lẻ, gồm 9 - 17 lá chét hình bầu dục, nguyên. Cụm hoa ở nách lá, hoa nhỏ hơn, màu hoa oải hương. Vỏ quả cong hình lưỡi liềm, dài 3 - 4 cm, rộng 6 - 8 mm, màu nâu đen, có lông dày, chứa 2 - 8 hạt nhỏ dẹt, màu nâu bóng.
Loài Cam thảo nhẵn – Glycyrrhiza glabra L. cũng thường được sử dụng. Cây cao 1 - 1,5 m, cũng có rễ dài màu vàng nhạt. Lá kép lông chim lẻ có lá chét nguyên với hình trái xoan tù. Hoa nhỏ hợp thành chùm dài mọc đứng màu lơ tím sáng. Quả đậu dẹp thuôn, thẳng, hoặc hơi cong, không có lông, nhỏ hơn loài trên và chỉ chứa 2 - 4 hạt tròn.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ôn đới Âu Á, phân bố chủ yếu ở Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Afghanistan, Iran... Tai đã nhập giống từ Trung Quốc và Nga về trồng thử nghiệm ở Vĩnh Phú (Tam Đảo), Hà Nội, Hải Tây nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Ở nước ta, Cam thảo có thể nở hoa sau 3 năm sinh trưởng, nhưng năng suất thấp. Đến 5 tuổi cây ra hoa nhiều và cho quả cao hơn. Thời kỳ ra hoa nói chung là tháng 6 - 7, thời kỳ đậu quả là tháng 8 - 9. Người ta thu hoạch Cam thảo vào khoảng năm thứ năm, thường vào mùa đông khi cây chết. Tại thời điểm này, bộ rễ đã chắc, nặng, nhiều bột và chất lượng tốt. Dùng bàn chải để loại bỏ đất. Phân loại thành lớn, nhỏ và khô. Khi khô 50%, bó thành từng bó, sau đó phơi khô chỉ cắt phần ngọn, không lấy rễ nên vỏ vẫn giữ được màu nâu đỏ rất đẹp. Thường dùng dưới dạng Sinh thảo, Chích thảo, bột Cam thảo:
- Sinh thảo: Rửa sạch nhanh rồi đồ mềm, cắt thành lát mỏng 2mm lúc còn nóng; nếu không kịp cắt thì cho ngay vào nước lã, ủ cho mềm để khi cắt được dễ dàng. Sau đó, mang sấy hoặc phơi khô.
- Chích thảo: Sau khi sấy khô rồi đem tẩm mật (1kg Cam thảo phiến thì dùng 200g mật, pha thêm 200ml nước đun sôi) tẩm rồi sao cho vàng thơm. Nếu dùng ít, có thể thái thành khúc 5 – 10cm, cuộn vài lần bằng giấy bản, nhúng qua nước cho đủ ướt rồi vùi vào tro nóng, khi thấy giấy khô hơi xém thì bỏ giấy, cắt lát mỏng.
Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài, cắt miếng tròn. Sau đó sấy khô, nghiền thành bột mịn vừa. Bảo quản trong thùng kín và để nơi khô ráo.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được của Cam thảo là rễ và thân rễ.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Vui đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này