Thuốc Panaxanti - Dược phẩm Việt (Đông Dược Việt)
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 2 vỉ, 3 vỉ x 10 viên; Hộp 1 chai 30 viên, 50 viên, 60 viên (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Panaxanti được sản xuất từ các hoạt chất Cao đặc toàn phần 500mg (tương đương 2.210mg dược liệu, bao gồm: Sài hồ 260mg, Phục linh 260mg, Đảng sâm 130mg, Tiền hồ 260mg, Cát cánh 260mg, Xuyên khung 195mg, Chỉ xác 195mg, Độc hoạt 260mg, Khương hoạt 260mg, Cam thảo 130mg) - 260mg, 260mg, 130mg, 260mg, 260mg, 195mg, 195mg, 260mg, 260mg, 130mg) với hàm lượng tương ứng 260mg, 260mg, 130mg, 260mg, 260mg, 195mg, 195mg, 260mg, 260mg, 130mg)
Mô tả Cam thảo hoạt chất của Thuốc Panaxanti
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cam thảo.
Tên khác: Lộ thảo, Cam thảo bắc.
Tên khoa học: Glycyrrhiza uralensis Fisch. Đây là một loài thực vật thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thảo sống lâu năm, cao 30 - 100 cm. Rễ dài màu vàng nhạt. Cơ thể có lông ngắn, mềm. Lá mọc so le, kép, có lông chim lẻ, gồm 9 - 17 lá chét hình bầu dục, nguyên. Cụm hoa ở nách lá, hoa nhỏ hơn, màu hoa oải hương. Vỏ quả cong hình lưỡi liềm, dài 3 - 4 cm, rộng 6 - 8 mm, màu nâu đen, có lông dày, chứa 2 - 8 hạt nhỏ dẹt, màu nâu bóng.
Loài Cam thảo nhẵn – Glycyrrhiza glabra L. cũng thường được sử dụng. Cây cao 1 - 1,5 m, cũng có rễ dài màu vàng nhạt. Lá kép lông chim lẻ có lá chét nguyên với hình trái xoan tù. Hoa nhỏ hợp thành chùm dài mọc đứng màu lơ tím sáng. Quả đậu dẹp thuôn, thẳng, hoặc hơi cong, không có lông, nhỏ hơn loài trên và chỉ chứa 2 - 4 hạt tròn.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ôn đới Âu Á, phân bố chủ yếu ở Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Afghanistan, Iran... Tai đã nhập giống từ Trung Quốc và Nga về trồng thử nghiệm ở Vĩnh Phú (Tam Đảo), Hà Nội, Hải Tây nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Ở nước ta, Cam thảo có thể nở hoa sau 3 năm sinh trưởng, nhưng năng suất thấp. Đến 5 tuổi cây ra hoa nhiều và cho quả cao hơn. Thời kỳ ra hoa nói chung là tháng 6 - 7, thời kỳ đậu quả là tháng 8 - 9. Người ta thu hoạch Cam thảo vào khoảng năm thứ năm, thường vào mùa đông khi cây chết. Tại thời điểm này, bộ rễ đã chắc, nặng, nhiều bột và chất lượng tốt. Dùng bàn chải để loại bỏ đất. Phân loại thành lớn, nhỏ và khô. Khi khô 50%, bó thành từng bó, sau đó phơi khô chỉ cắt phần ngọn, không lấy rễ nên vỏ vẫn giữ được màu nâu đỏ rất đẹp. Thường dùng dưới dạng Sinh thảo, Chích thảo, bột Cam thảo:
- Sinh thảo: Rửa sạch nhanh rồi đồ mềm, cắt thành lát mỏng 2mm lúc còn nóng; nếu không kịp cắt thì cho ngay vào nước lã, ủ cho mềm để khi cắt được dễ dàng. Sau đó, mang sấy hoặc phơi khô.
- Chích thảo: Sau khi sấy khô rồi đem tẩm mật (1kg Cam thảo phiến thì dùng 200g mật, pha thêm 200ml nước đun sôi) tẩm rồi sao cho vàng thơm. Nếu dùng ít, có thể thái thành khúc 5 – 10cm, cuộn vài lần bằng giấy bản, nhúng qua nước cho đủ ướt rồi vùi vào tro nóng, khi thấy giấy khô hơi xém thì bỏ giấy, cắt lát mỏng.
Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài, cắt miếng tròn. Sau đó sấy khô, nghiền thành bột mịn vừa. Bảo quản trong thùng kín và để nơi khô ráo.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được của Cam thảo là rễ và thân rễ.
Mô tả Cát căn hoạt chất của Thuốc Panaxanti
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cát căn.
Tên gọi khác: Củ sắn dây, Bạch cát, Cam cát căn, Phấn cát, Khau cát, Bẳn mắm kéo.
Tên khoa học: Pueraria thomsoni Benth.
Họ: Fabaceae (Đậu).
Đặc điểm tự nhiên
Sắn dây là một loại dây leo, có thể dài tới 10 m, rễ phát triển to lên thành củ, nhiều bột. Thân cây hơi có lông. Lá kép gồm 3 lá chét; lá chét hình trứng, bản thân lá chét lại chia thành 2 - 3 thuỳ rõ rệt, phiến lá chét dài 7 - 15 cm, rộng 5 - 12 cm có lông nằm rạp trên 2 mặt lá, cuống lá chét giữa dài, cuống 2 lá chét hai bên ngắn hơn. Hoa màu xanh, mọc thành chùm ở kẽ lá. Quả dài 9 - 10 cm, rộng 10 mm, màu vàng nhạt, rất nhiều lông.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây mọc hoang ở khắp miền rừng núi nước ta tuy nhiên không thấy khai thác cây mọc hoang. Được trồng tại khắp nơi để lấy củ ăn và chế bột sắn dây làm thuốc.
Từ cuối tháng 10 đến tháng 3 - 4 năm sau, người ta đào lấy rễ rửa sạch đất cát, bóc bỏ lớp vỏ giấy bên ngoài (cho dễ khô), cắt thành từng khúc dài 10 - 15 cm, nếu đường kính quá to thì bổ dọc thành 2 nửa, có khi thái thành từng miếng dày 0,50 - 1 cm, xông diêm sinh, sau đó phơi hoặc sấy khô. Nếu muốn chế bột sắn dây thì giã nhỏ, gạn lấy tinh bột, lọc đi lọc lại nhiều lần, phơi khô.
Bộ phận sử dụng
Dược liệu này là rễ củ (Radix Puerarie) cạo vỏ phơi khô của cây sắn dây.
Mô tả Cát cánh (Rễ) hoạt chất của Thuốc Panaxanti
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cát cánh.
Tên khác: Kết cánh, khổ cát cánh, bạch cát cánh.
Tên khoa học: Platycodon grandiflorum A.DC.
Thuộc họ: Hoa Chuông - Campanulaceae.
Đặc điểm tự nhiên
Trong tên Platycodon của cây cát cánh, chữ Latinh Platy có nghĩa là rộng, Codon là chuông. Grandiflorum bao gồm Grandi là to, florum là hoa. Tên này được đặt do hoa của cây cát cánh có hình cái chuông rộng.
Cát cánh là một loại cây cỏ nhỏ, thường mọc lâu năm. Thân cao khoảng từ 60cm đến 90cm. Lá hầu như không có cuống, mọc đối hoặc mọc vòng. Phiến lá hình trứng, mép lá có răng cưa to. Lá phía trên nhỏ hơn, đôi khi mọc so le, dài khoảng từ 3cm đến 6cm, rộng từ khoảng 1cm đến 2,5cm.
Hoa thường mọc đơn độc hoặc mọc dạng bông thưa. Đài hoa hình chuông rộng, có màu xanh, dài 1cm, mép đài hoa thường có 5 răng. Tràng hoa hình chuông, thường có màu lam tím hoặc màu trắng, đường kính từ 3cm đến 5cm. Quả hình trứng ngược. Trong năm, mùa hoa từ tháng 5 đến tháng 8, mùa quả từ tháng 7 đến tháng 9.
Hoa cát cánh hình chuông màu xanh lamPhân bố, thu hái, chế biến
Phân bố
Cây thường mọc hoang và mọc nhiều ở Trung Quốc (tỉnh An Huy, Giang Tô và Sơn Đông), Liên Xô cũ. Cây cát cánh đang được di thực ngày càng nhiều vào nước ta. Cây được trồng bằng hạt, có rễ to, mọc rất khỏe.
Thu hái
Thu hái rễ cây ở những cây đã trưởng thành sống từ 4 đến 5 năm. Thu hái vào mùa thu, đông hoặc mùa xuân. Tốt nhất là vào mùa thu đông vì cho chất lượng và sản lượng tốt hơn.
Chế biến
Sau khi đào rễ thu hái, mang về rửa sạch, bỏ tua rễ, sau đó cạo sạch vỏ ngoài rồi phơi nắng cho khô. Tẩm nước cắt lát dùng hoặc chế với mật rồi mang đi sao vàng tạo thành cát cánh chích mật.
Rễ cát cánh là bộ phận dùng làm thuốcBộ phận sử dụng
Người ta chủ yếu dùng rễ, đôi khi dùng là thân cây cát cánh như một vị thuốc có tác dụng chữa bệnh.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Panaxanti đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này