Thuốc Mãn kinh Nhất Nhất
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 02 vỉ, 03 vỉ x 10 viên; Hộp 1 lọ 30 viên, 60 viên, 100 viên (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Mãn kinh Nhất Nhất được sản xuất từ các hoạt chất Mỗi 550mg cao khô hỗn hợp dược liệu tương đương với Mẫu đơn bì 99mg, Hà thủ ô đỏ 150mg, Ngũ vị tử 150mg, Trạch tả 150mg, Địa hoàng. 150mg, Huyền sâm 150mg, Mạch môn 150mg, Thục địa 150mg, Câu đằng 300mg, Thủ ô đằng 300mg, Phục linh 300mg, Sâm cau 300mg, Từ thạch 300mg, Trân châu mẫu 300mg, Phù tiểu mạch 300mg với hàm lượng tương ứng 99mg, 150mg, 150mg, 150mg, 150mg, 150mg, 150mg, 150mg, 300mg, 300mg, 300mg, 300mg, 300mg, 300mg, 300mg
Mô tả Câu đằng hoạt chất của Thuốc Mãn kinh Nhất Nhất
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Câu đằng, Vuốt lá mỏ, Câu đằng lá mỏ.
Tên khác: Gai móc câu; Thuần câu câu; Vuốt mèo; Dây móc câu; Móc ó; Vuốt.
Tên khoa học: Uncaria rhynchophylla (Miq.) Miq. ex Havil.
Tên đồng nghĩa: Nauclea rhynchophylla Miq.
Họ: Rubiaceae (Cà phê).
Đặc điểm tự nhiên
Cây nhỡ leo, cành non có tiết diện vuông góc, có rãnh dọc, khi già cứng màu xám đen hay nâu đen.
Lá có cuống ngắn, mọc đối, có lá kèm; ở kẽ lá có gai nhọn mọc cong xuống, cứ một mấu 2 gai lại xen một mấu có 1 gai.
Hoa tụ họp thành hình cầu mọc đơn độc hoặc thành chùm ở kẽ lá và đầu cành; lá đài 5, ống ngắn; cánh hoa 5, ống tràng dài, nhị 5 đính ở họng tràng.
Quả nang dài và dẹt chứa nhiều hạt có cánh.
Mùa hoa quả: Tháng 3 - 7.
Dược liệu Câu ĐằngPhân bố, thu hái, chế biến
Cây mọc hoang ở vùng thượng du Cao Bằng, Lào Cai, chưa được trồng. Người ta cắt những mẩu cành đem về, chỉ lấy phần đót có móc câu phơi hay sấy khô.
Có đốt có 1 móc, có đốt có 2 móc câu. Loại 2 móc câu được coi là tốt hơn.
Bộ phận sử dụng
Đoạn thân, cành có mấu gai ở kẽ lá hoặc phần gai cong như lưỡi câu.
Mô tả Địa hoàng (Rễ) hoạt chất của Thuốc Mãn kinh Nhất Nhất
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Địa hoàng.
Tên khác: Sinh địa hoàng; Sinh địa; Nguyên sinh địa; Sheng di huang.
Tên khoa học: Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch. ex Steud.
Họ: Scrophulariaceae (Hoa mõm chó).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thân thảo sống nhiều năm cao từ 20cm đến 30cm, cây có lông mềm và lông tiết màu tro trắng. Rễ mầm mọc lên thành củ.
Lá mọc thành vòng ở gốc cây; phiến lá có hình bầu dục, gốc lá thuôn, đầu lá hình tròn, dài từ 3cm đến 15cm, rộng từ 1,5cm đến 6cm, mép khía lá có răng tròn nhưng không đều; gân lá hình mạng lưới nổi rõ ở mặt dưới làm cho lá như bị rộp, chia lá thành những múi nhỏ.
Hoa mọc thành chùm trên một cuống chung dài ở đầu cành. Đài và tràng đều có hình chuông, tràng hơi cong dài từ 3cm đến 4cm, mặt ngoài có màu tím đẫm, mặt trong hơi vàng với những đốm tím 4 nhị, nhị dài.
Quả có hình quả trứng, có chứa nhiều hạt nhỏ bên trong.
Hoa ra vào tháng 4 - 6, kết quả tháng 7 - 8.
Phân bố, thu hái, chế biến
Loài cây xuất xứ từ Trung Quốc. Nhập trồng vào nước ta từ những năm 1958, hiện nay đã được phát triển trồng ở nhiều tỉnh từ Bắc đến Nam.
Địa hoàng có nguồn gốc từ vùng ôn đới ấm của Trung Quốc nên khi cây trồng ở Việt Nam thường chọn đúng vào thời kỳ nhiệt độ trong năm thấp dưới 30oC để có tỉ lệ mọc tốt. Khi thời tiết trở lên nắng gắt, mưa nhiều là đã có thể thu hoạch lấy rễ củ. Địa hoàng ra hoa kết quả nhiều nhưng người ta thường hay tận dụng khả năng nảy mầm rất tốt của rễ củ làm nhân giống để trồng. Nhân giống bằng những mầm rễ, mỗi mầm dài từ 1cm đến 2cm.
Sau khi trồng khoảng 6 tháng rưỡi là có thể thu hoạch. Mỗi năm có thể thu hoạch đến hai vụ vào các tháng 2 - 3 và 8 - 9. Người ta khuyên nên chọn ngày nắng ráo để đào củ.
Củ Địa hoàng tươi hình dạng thoi hay hình trụ cong queo, dễ bị bẻ gẫy; mặt ngoài màu vàng đỏ, thân củ có những vùng bị thắt lại chia củ thành từng khoanh. Trên các rãnh có vết của mầm.
Bộ phận sử dụng
Rễ củ.
Tuỳ theo cách chế biến, ta có Sinh địa hoàng và Thục địa hoàng.
Mô tả Huyền sâm hoạt chất của Thuốc Mãn kinh Nhất Nhất
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Huyền sâm.
Tên khác: Đại nguyên sâm, Huyền đài, Hắc sâm, Trục mã, Phức thảo, Huyền vũ tinh, Dã chi ma, Lăng tiêu thảo, Nguyên sâm.
Tên khoa học: Radix Scrophulariae Ningpoensis thuộc họ Mõm chó (Scrophulariaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Huyền sâm là một loài thực vật thân thảo sống lâu năm. Thân cây huyền sâm có hình dạng vuông và có chiều cao khoảng 1.7 - 2.3 mét. Cây có lá mọc đối xứng, với cuống lá dài. Một đặc trưng của lá huyền sâm là màu tím xanh, và phiến lá có hình dạng dài hình trứng với răng cưa ở mép lá.
Cây huyền sâm thường có hoa nở vào mùa hè. Hoa huyền sâm mọc thành chùy tròn, có hình dạng giống môi và có màu tím xám. Quả của cây có hình dạng hình trứng và thường xuất hiện dưới dạng cặp. Bên trong quả chứa nhiều hạt nhỏ có màu đen.
Rễ của cây huyền sâm phát triển mạnh mẽ và có kích thước lớn, thường dài khoảng 10 - 20 cm. Vỏ của rễ có màu vàng nhạt hoặc trắng, nhưng sau khi được chế biến, màu sắc thường chuyển sang màu nâu nhạt. Ruột bên trong rễ mềm dẻo và có màu đen, do đó có tên gọi là huyền sâm.
Cây huyền sâm trong tự nhiênPhân bố, thu hái, chế biến
Cây huyền sâm hiện nay đã có ở một số khu vực nước ta, trước đây có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Huyền sâm được sản xuất chủ yếu ở tỉnh Tứ Xuyên, nơi được gọi là "Xuyên huyền sâm" hoặc "Thổ huyền sâm". Cây thường được trồng vào đầu mùa hạ và thu hoạch vào mùa thu. Khu vực chính trồng huyền sâm ở Tứ Xuyên bao gồm Đạt Huyện, Ôn Giang, Vạn Huyện và Bồi Lăng.
Ngoài ra, huyền sâm cũng được sản xuất ở tỉnh Triết Giang, đây được gọi là "Quảng huyền sâm". Cây thường được trồng vào đầu năm và thu hoạch vào cuối năm. Các khu vực chính của trồng huyền sâm ở Triết Giang bao gồm Đông Dương và Tiêu Cư.
Loại huyền sâm này cũng được sản xuất ở các tỉnh khác như Sơn Đông, Hồ Bắc, Giang Tây, Thiểm Tây, Quý Châu, Cát Lâm và Liêu Ninh. Ngoài việc trồng trọt, cây huyền sâm cũng có thể được khai thác từ cây mọc hoang dại trong các tỉnh này.
Trồng huyền sâm trong nước ta mới được thực hiện gần đây và có thể trồng ở cả đồng bằng và miền núi với hiệu suất cao và chất lượng tốt.
Rễ huyền sâm được thu hoạch thường vào tháng 10 - 11 hàng năm. Sau khi đào lấy rễ, chúng được rửa sạch và cắt bỏ các rễ con, sau đó được phân loại theo kích thước. Sau đó, có những phương pháp bào chế dược liệu như sau:
- Phương pháp ủ và phơi khô: Rễ được rửa sạch, ủ cho mềm, sau đó cắt thành lát và phơi khô.
- Phương pháp chín trên cỏ xác: Rễ được rửa sạch, sau đó lót lên cỏ xác và xếp lên trên. Sau đó, để cho rễ chín và sau đó phơi khô để sử dụng dần.
- Bào chế thổ huyền sâm: Sau khi thu hoạch, rễ được rửa sạch với nước, sau đó được sấy khô một nửa. Sau đó, đặt dược liệu vào một đống trong khoảng 2 - 3 ngày và phủ kín bằng cỏ rạ, để ruột chuyển thành màu đen. Tiếp theo, dược liệu được sấy khô khoảng 9 phần, đặt vào một chảo và đảo cho đất cát và rễ củ rơi ra hết. Cuối cùng, dược liệu được phân loại và bảo quản để sử dụng dần.
- Bào chế huyền sâm Triết Giang: Sau khi thu hoạch, rễ được phơi nắng ngay, nên sấy khô một nửa. Sau đó, đặt dược liệu vào một đống trong 2 - 3 ngày, tiếp theo phơi khô trong 40 ngày để dược liệu khô hoàn toàn.
Sau khi được bào chế, dược liệu huyền sâm có hình dạng trụ, dài khoảng 12 - 15 cm, rộng 25 mm. Bề ngoài của nó có màu nâu đất, bên trong có màu đen và có cấu trúc cứng dẻo. Dạng bột của huyền sâm có màu đen nhạt, mang hương vị mặn và ngọt.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng để làm thuốc của cây huyền sâm là rễ.
Vị thuốc Huyền sâmThông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Mãn kinh Nhất Nhất đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này