Thuốc Hộ thanh can - HDPHARMA
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 1 túi nhôm x 3 vỉ x 10 viên (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Hộ thanh can được sản xuất từ các hoạt chất Cao khô dược liệu 400mg (tương đương với: Long đởm thảo 1,33g, Hoàng cầm 0,89g, Trạch tả 0,89g, Mộc thông 0,89g, Đương quy 0,89g, Cam thảo 0,22g, Chi tử 1,33g, Xa tiền tử 0,67g, Sài hồ 0,89g, Sinh địa hoàng 0,89g với hàm lượng tương ứng
Mô tả Cam thảo hoạt chất của Thuốc Hộ thanh can
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cam thảo.
Tên khác: Lộ thảo, Cam thảo bắc.
Tên khoa học: Glycyrrhiza uralensis Fisch. Đây là một loài thực vật thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thảo sống lâu năm, cao 30 - 100 cm. Rễ dài màu vàng nhạt. Cơ thể có lông ngắn, mềm. Lá mọc so le, kép, có lông chim lẻ, gồm 9 - 17 lá chét hình bầu dục, nguyên. Cụm hoa ở nách lá, hoa nhỏ hơn, màu hoa oải hương. Vỏ quả cong hình lưỡi liềm, dài 3 - 4 cm, rộng 6 - 8 mm, màu nâu đen, có lông dày, chứa 2 - 8 hạt nhỏ dẹt, màu nâu bóng.
Loài Cam thảo nhẵn – Glycyrrhiza glabra L. cũng thường được sử dụng. Cây cao 1 - 1,5 m, cũng có rễ dài màu vàng nhạt. Lá kép lông chim lẻ có lá chét nguyên với hình trái xoan tù. Hoa nhỏ hợp thành chùm dài mọc đứng màu lơ tím sáng. Quả đậu dẹp thuôn, thẳng, hoặc hơi cong, không có lông, nhỏ hơn loài trên và chỉ chứa 2 - 4 hạt tròn.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ôn đới Âu Á, phân bố chủ yếu ở Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Afghanistan, Iran... Tai đã nhập giống từ Trung Quốc và Nga về trồng thử nghiệm ở Vĩnh Phú (Tam Đảo), Hà Nội, Hải Tây nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Ở nước ta, Cam thảo có thể nở hoa sau 3 năm sinh trưởng, nhưng năng suất thấp. Đến 5 tuổi cây ra hoa nhiều và cho quả cao hơn. Thời kỳ ra hoa nói chung là tháng 6 - 7, thời kỳ đậu quả là tháng 8 - 9. Người ta thu hoạch Cam thảo vào khoảng năm thứ năm, thường vào mùa đông khi cây chết. Tại thời điểm này, bộ rễ đã chắc, nặng, nhiều bột và chất lượng tốt. Dùng bàn chải để loại bỏ đất. Phân loại thành lớn, nhỏ và khô. Khi khô 50%, bó thành từng bó, sau đó phơi khô chỉ cắt phần ngọn, không lấy rễ nên vỏ vẫn giữ được màu nâu đỏ rất đẹp. Thường dùng dưới dạng Sinh thảo, Chích thảo, bột Cam thảo:
- Sinh thảo: Rửa sạch nhanh rồi đồ mềm, cắt thành lát mỏng 2mm lúc còn nóng; nếu không kịp cắt thì cho ngay vào nước lã, ủ cho mềm để khi cắt được dễ dàng. Sau đó, mang sấy hoặc phơi khô.
- Chích thảo: Sau khi sấy khô rồi đem tẩm mật (1kg Cam thảo phiến thì dùng 200g mật, pha thêm 200ml nước đun sôi) tẩm rồi sao cho vàng thơm. Nếu dùng ít, có thể thái thành khúc 5 – 10cm, cuộn vài lần bằng giấy bản, nhúng qua nước cho đủ ướt rồi vùi vào tro nóng, khi thấy giấy khô hơi xém thì bỏ giấy, cắt lát mỏng.
Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài, cắt miếng tròn. Sau đó sấy khô, nghiền thành bột mịn vừa. Bảo quản trong thùng kín và để nơi khô ráo.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được của Cam thảo là rễ và thân rễ.
Mô tả Chi tử hoạt chất của Thuốc Hộ thanh can
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Chi tử.
Tên khác: Dành dành; Sơn chi; Sơn chi tử.
Tên khoa học: Gardenia jasminoides Ellis, thuộc họ Rubiaceae (Cà phê).
Đặc điểm tự nhiên
Dành dành là một loại cây nhỏ, cao chừng 1 – 2m thường xanh tốt quanh năm, thân thẳng nhẵn. Lá mọc đối, có lá kèm to, mặt trên màu sẫm bóng. Hoa mọc đơn độc, cánh hoa màu trắng, không cuống, có mùi thơm. Nở vào mùa hè. Quả hình chén với 6 - 9 góc, có 2 - 5 ngăn, khi chín có màu vàng đỏ, chứa rất nhiều hạt, mùi thơm vị đắng.
Phân bố, thu hái, chế biến
Dành dành mọc hoang và được trồng tại nhiều vùng ở miền Bắc nước ta. Tại miền núi, Dành dành thường thấy mọc hoang ở ven suối. Tại đồng bằng, nhân dân thường trồng làm cảnh và lấy quả làm thuốc hay để nhuộm bánh trái thành màu vàng (bánh xu xê, thạch). Dành dành còn thấy mọc ở Triều Tiên, Trung Quốc, Nhật Bản.
Thu hoạch vào tháng 9 đến 11, hái lấy quả chín chuyển màu vàng đỏ, ngắt bỏ cuống quả và loại tạp, đồ hoặc luộc đến khi hạt hơi phồng lên, lấy ra bỏ vỏ lấy hạt đem phơi hoặc sấy khô.
Khi dùng có thể dùng sống (không chế biến gì thêm cả), có thể sao cho hơi sẫm màu hoặc có thể sao cháy đen nhưng chưa thành tro (tồn tính). Trong đông y cho rằng để sống có tác dụng thanh nhiệt (chữa sốt), sao vàng để tả hỏa (nóng trong người), sao đen để cầm máu.
Chi tử sao vàng: Lấy dược liệu khô, sao lửa nhỏ đến màu nâu vàng, lấy ra để nguội.
Chi từ sao xém (Tiêu chi tử): Lấy dược liệu khô, dùng lửa vừa sao đến khi mặt ngoài dược liệu vàng xém, mặt bẻ màu thẫm là được, lấy ra để nguội. Khi sao xém dược liệu dễ cháy, có thể phun một ít nước, lấy ra phơi hoặc sấy khô.
Bộ phận sử dụng
Quả chín được thu hái vào tháng 8 - 10 ngắt bỏ cuống phơi hay sấy nhẹ đến khô. Theo dược điển đông y Trung Quốc 1963, quả phải nhúng nước sôi hoặc đem đồ nửa giờ, rồi mới lấy ra phơi khô. Nếu bóc vỏ trước khi phơi sấy, ta được Chi tử nhân. Quả hình trứng hay hình thoi, dài 2 - 4cm, đường kính 1 - 2cm. Mặt ngoài màu cam đến nâu đỏ, có khi xám nâu đến đỏ xám hơi bóng, có 5 - 8 đường gờ chạy dọc theo quả. Vỏ quả mỏng, nhiều hạt xếp xít nhau thành một khối hình cầu hay quả trứng. Hạt mỏng hình cầu dẹt mặt ngoài hình màu cam đến vàng nâu. Tùy theo cách sử dụng, có thể phơi khô dùng sống để thanh nhiệt, sao qua dùng chín để tá hỏa hoặc sao đen để cầm máu.
Lá thu hái quanh năm dùng tươi.
Mô tả Địa hoàng (Rễ) hoạt chất của Thuốc Hộ thanh can
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Địa hoàng.
Tên khác: Sinh địa hoàng; Sinh địa; Nguyên sinh địa; Sheng di huang.
Tên khoa học: Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch. ex Steud.
Họ: Scrophulariaceae (Hoa mõm chó).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thân thảo sống nhiều năm cao từ 20cm đến 30cm, cây có lông mềm và lông tiết màu tro trắng. Rễ mầm mọc lên thành củ.
Lá mọc thành vòng ở gốc cây; phiến lá có hình bầu dục, gốc lá thuôn, đầu lá hình tròn, dài từ 3cm đến 15cm, rộng từ 1,5cm đến 6cm, mép khía lá có răng tròn nhưng không đều; gân lá hình mạng lưới nổi rõ ở mặt dưới làm cho lá như bị rộp, chia lá thành những múi nhỏ.
Hoa mọc thành chùm trên một cuống chung dài ở đầu cành. Đài và tràng đều có hình chuông, tràng hơi cong dài từ 3cm đến 4cm, mặt ngoài có màu tím đẫm, mặt trong hơi vàng với những đốm tím 4 nhị, nhị dài.
Quả có hình quả trứng, có chứa nhiều hạt nhỏ bên trong.
Hoa ra vào tháng 4 - 6, kết quả tháng 7 - 8.
Phân bố, thu hái, chế biến
Loài cây xuất xứ từ Trung Quốc. Nhập trồng vào nước ta từ những năm 1958, hiện nay đã được phát triển trồng ở nhiều tỉnh từ Bắc đến Nam.
Địa hoàng có nguồn gốc từ vùng ôn đới ấm của Trung Quốc nên khi cây trồng ở Việt Nam thường chọn đúng vào thời kỳ nhiệt độ trong năm thấp dưới 30oC để có tỉ lệ mọc tốt. Khi thời tiết trở lên nắng gắt, mưa nhiều là đã có thể thu hoạch lấy rễ củ. Địa hoàng ra hoa kết quả nhiều nhưng người ta thường hay tận dụng khả năng nảy mầm rất tốt của rễ củ làm nhân giống để trồng. Nhân giống bằng những mầm rễ, mỗi mầm dài từ 1cm đến 2cm.
Sau khi trồng khoảng 6 tháng rưỡi là có thể thu hoạch. Mỗi năm có thể thu hoạch đến hai vụ vào các tháng 2 - 3 và 8 - 9. Người ta khuyên nên chọn ngày nắng ráo để đào củ.
Củ Địa hoàng tươi hình dạng thoi hay hình trụ cong queo, dễ bị bẻ gẫy; mặt ngoài màu vàng đỏ, thân củ có những vùng bị thắt lại chia củ thành từng khoanh. Trên các rãnh có vết của mầm.
Bộ phận sử dụng
Rễ củ.
Tuỳ theo cách chế biến, ta có Sinh địa hoàng và Thục địa hoàng.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Hộ thanh can đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này