Thuốc Dưỡng nhan tố - Phước Sanh

Liên hệ

Chính sách khuyến mãi

Sản phẩm chính hãng

Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.

Cam kết hàng chính hãng


author-avatar
Được viết bởi
Cập nhật mới nhất:

Thông tin dược phẩm

Nhà sản xuất:
Số đăng ký:
VD-24624-16
Thành phần:
Dạng bào chế:
Chai
Đóng gói:
Hộp 1 chai 220 ml
Xuất xứ:
Việt Nam
Đơn vị đăng ký:
DP Phước Sanh

Video

Thuốc Dưỡng nhan tố với hoạt chất Mỗi 220 ml chứa dịch chiết từ các dược liệu: Sinh địa 20g, Xuyên khung 20g, Đương quy 30g, Bạch thược 20g, Huyền sâm 30g, Hà thủ ô đỏ 15g, … cùng hàm lượng phù hợp , là loại thuốc bảo vệ sức khỏe mà Thuocviet muốn nhắc tới trong bài viết dưới đây. Giá thành hiện nay của Chai Thuốc Dưỡng nhan tố là khoảng 46200 vnđ/Chai (giá bán buôn số lượng lớn theo thông báo của cục quản lý dược), mức giá này có thể thay đổi tùy vào từng thời điểm cũng như tùy vào nhu cầu mua thuốc của khách hàng. Thuốc là sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được sản xuất tại các cơ sở, công ty uy tín Phước Sanh Việt Nam. Đồng thời, thuốc đã được tiếp nhận hồ sơ đăng ký lưu hành vào ngày 12/04/2016 với mã đăng ký là VD-24624-16. DP Phước Sanh chính là công ty kê khai trong nước và làm hồ sơ xin cấp phép lưu hành cho sản phẩm Thuốc Dưỡng nhan tố này.

Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 1 chai 220 ml (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)

Thuốc Dưỡng nhan tố được sản xuất từ các hoạt chất Mỗi 220 ml chứa dịch chiết từ các dược liệu: Sinh địa 20g, Xuyên khung 20g, Đương quy 30g, Bạch thược 20g, Huyền sâm 30g, Hà thủ ô đỏ 15g, … với hàm lượng tương ứng

Mô tả Bạch thược hoạt chất của Thuốc Dưỡng nhan tố

Tên gọi, danh pháp

Tên Tiếng Việt: Bạch thược.

Tên khác: Dư dung, Kỳ tích, Giải thương, Kim thược dược, Mộc bản thảo, Tương ly, Lê thực, Đỉnh, Ngưu đỉnh, Khởi ly, Thổ cẩm, Quan phương, Cận khách, Diễm hữu, Hắc tân diêng, Điện xuân khách, Cẩm túc căn, Một cốt hoa, Lam vĩ xuân.

Tên khoa học: Radix Paeonia lactiflora (peony).

Đặc điểm tự nhiên

Rễ hình trụ tròn, thẳng hoặc đôi khi hơi uốn cong, hai đầu phẳng, đều nhau hoặc một đầu to hơn, dài 5 cm đến 18 cm, đường kính 1 cm đến 2,5 cm. Mặt ngoài hơi trắng hoặc hồng nhạt, đôi khi có màu nâu thẫm, nhẵn hoặc có nếp nhăn dọc và vết tích của rễ nhỏ. Chất rắn chắc, nặng, khó bẻ gãy. Mặt cắt phẳng màu trắng ngà hoặc hơi phớt hồng, vỏ hẹp, gỗ thành tia rõ đôi khi có khe nứt. Không mùi. Vị hơi đắng và chua.

Dược liệu thái lát: Lát mỏng gần tròn, bên ngoài nhẵn mịn, màu trắng hoặc hơi phớt hồng. Vị hơi đắng và chua.

Phân bố, thu hái, chế biến

Phân bố

Thế giới: Bạch thược vốn là cây mọc tự nhiên ở một số tình Hắc Long Giang, Cát Lâm, Hà Bắc, Liêu Ninh, Sơn Đông... (Trung Quốc). Do giá trị và nhu cầu làm thuốc tăng, nên bạch thược cũng như một số loài khác cùng chi đã được đưa vào trồng từ lâu đời ở nhiều địa phương của Trung Quốc.

Việt Nam: Bạch thược thuộc loại cây bụi ưa ẩm và ưa sáng. Cây trồng ở Sa Pa đã tỏ ra thích nghi với điều kiện khí hậu của vùng á nhiệt đới núi cao, nhiệt độ trung bình khoảng 15,3°C, lượng mưa 2800 mm/năm. Cây trồng từ hạt sau 4 hoặc 5 năm mới bắt đầu có hoa. Bạch thược rụng lá vào mùa đông, trên thân và cành có nhiều chồi ngủ. Đến khoảng giữa tháng 2 năm sau (sau tết âm lịch), từ các chồi ngủ nhanh chóng mọc ra cành và lá non mới. Mùa hoa bắt đầu vào giữa tháng 5, kéo dài từ 10 đến 15 ngày, song mỗi hoa chỉ nở trong vòng vài giờ, đến trưa đã bắt đầu tàn. Hạt giống thu được ở những cây trồng, đem gieo đã cho những lứa cây mới.

Bạch thược có khả năng mọc chồi từ gốc hoặc từ rễ của cây. Chồi tách từ rễ củ có thể làm cây giống để trồng.

Thu hái

Đào lấy rễ, rửa sạch đất cát, cắt bỏ đầu đuôi và rễ con, cạo sạch vỏ ngoài sau đó luộc chín hoặc luộc chín rồi bỏ vỏ, phơi khô hoặc thái lát phơi khô.

Chế biến

Lấy rễ chưa thái lát, làm ẩm, ủ mềm, thái lát phơi khô.

Bảo quản

Để nơi khô, mát, tránh mốc, mọt.

Bộ phận sử dụng

Rễ thu hái từ cây 3 – 5 tuổi vào hè – thu, rửa sạch đất cát, cắt bỏ đầu đuôi và rễ con, gọt bỏ vỏ ngoài, cho vào nước sôi, đun sơ qua, vớt ra, đảo hoặc lăn tròn, rồi phơi hay sấy khô.

Rễ hình trụ tròn, hai đầu đều nhau hoặc một đầu hơi to hơn, thẳng hoặc hơi cong queo, dài 10 – 20 cm, đường kính 1 – 2 cm. Mặt ngoài màu nâu nhạt hoặc màu phấn trắng, chỗ chưa cạo hết vỏ có màu nâu xám, đôi khi có đường nhăn dọc rõ rệt.

Các bộ phận Bạch thược

Mô tả Đương quy (Ngọn, Rễ, Thân) hoạt chất của Thuốc Dưỡng nhan tố

Tên gọi, danh pháp

Tên Tiếng Việt: Đương quy.

Tên khác: Vân quy, Tần quy, Xuyên quy, Nhân sâm cho phụ nữ.

Tên khoa học: Angelica sinensis (Oliv) Deils. Họ: Apiaceae (Hoa tán).

Tên đồng nghĩa: Angelica polymorpha Maxim. var. sinensis Oliv.

Đặc điểm tự nhiên

Hoa đương quy mọc thành từng chùm màu trắng

Đương quy Trung Quốc (Angelica sinensis)

Đương quy Trung Quốc là loài cây nhỏ, sống lâu năm. Cây có thể cao từ 40 đến 80cm, hoặc có thể cao đến 1m khi cây có hoa. Thân cây màu tím, có dạng hình trụ, có rãnh dọc. Lá mọc so le, 2 đến 3 lần xẻ lông chim, cuống dài 3 đến 12 cm, gốc phát triển thành bẹ to, đầu nhọn, 3 đôi lá chét. Đôi lá chét phía dưới có cuống dài, đôi lá chét phía trên đỉnh không có cuống; lá chét lại xẻ từ 1 đến 2 lần nữa, mép chia thùy và răng cưa không đều, phía dưới cuống phát triển dài gần một nửa chiều dài cuống, ôm lấy thân. Rễ cây đương quy rất phát triển.

Cụm hoa mọc ở ngọn hợp thành tán kép gồm 12 đến 40 hoa. Cụm hoa dài ngắn không đều, hoa nhỏ có màu lục nhạt hoặc màu xanh trắng.

Quả bế dẹt, có rìa màu tím nhạt. Toàn thân nhẵn và có mùi thơm rất đặc biệt.

Mùa hoa quả thường vào khoảng tháng 7 đến tháng 8.

Sinh thái: Đây là loài cây ưa khí hậu ẩm mát vùng núi. Đương quy được nhân giống bằng hạt. Thời gian trồng đến khi có thể thu hoạch là từ 3 năm trở lên.

Phân bố, thu hái, chế biến

Đa phần các giống đương quy đều có nguồn gốc ở vùng ôn đới, như ở Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Cây thường mọc ở các vùng núi cao với khí hậu ẩm mát. Tại Trung Quốc, đương quy được trồng nhiều nhất ở các tỉnh Cam Túc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Thiểm Tây.

Ở nước ta, dược liệu này đang được trồng trong phạm vi nhỏ ở Sapa (tỉnh Lào Cai) hoặc các tỉnh Lai Châu, Hòa Bình, Lào Cai, chưa phổ biến rộng rãi. Đương quy trồng ở Việt Nam cũng phải lựa chọn thời vụ, sao cho mùa gieo hạt và sinh trưởng của cây trùng với thời gian có nhiệt độ thấp nhất trong năm, tuy nhiên chất lượng cây trồng ở vùng đồng bằng có khác so với cây được trồng ở vùng núi cao.

Hằng năm vào mùa thu gieo hạt, cuối thu đầu đông nhổ cây con cho vào hố ở dưới đất cho qua mùa động. Qua mùa xuân lại trồng, đến mùa đông lại bảo vệ. Đến mùa thu năm thứ 3 có thể thu hoạch. Đào rễ về cắt bỏ rễ con, phơi trong nhà hoặc cho vào trong thùng, sấy lửa nhẹ, cuối cùng phơi trong mát cho khô.

Cụm hoa mọc ở ngọn hợp thành tán kép

Bộ phận sử dụng

Chỉ thu hái khi dược liệu trồng được 3 tuổi trở lên, Thời điểm để đào rễ tốt nhất là vào mùa thu. Sau khi thu hoạch, người dân cắt bỏ phần lá và rễ con, giữ lại phần rễ, phơi trong râm hoặc cho vào thùng sấy lửa nhẹ đến khô. Củ to, thịt chắc, dẻo, màu trắng hồng, nhiều tinh dầu, có mùi thơm đặc biệt, vị ngọt sau cay là loại tốt.

Khi dùng thì bào chế như sau: Rửa qua rễ bằng rượu (nếu không có rượu thì rửa nhanh bằng ít nước, sau vẩy cho ráo nước). Ủ một đêm cho mềm, bào mỏng 1mm. Nếu muốn để được lâu, rửa bằng nước và muối; sau đó, phải sấy nhẹ qua lưu huỳnh hoặc đốt xông nóng (không đốt trực tiếp), cho đến khi dược liệu có màu đỏ tươi hay màu vàng kim tuyến, rồi sấy than. Theo kinh nghiệm nhân dân Trung Quốc, không phơi chỗ râm mát (đương quy có màu xanh) và cũng không phơi nắng (mất tinh dầu).

Đương quy được phân thành nhiều loại: Quy đầu rễ chính và một bộ phận cổ rễ, đường kính từ 1,5 đến 4 cm, đầu tù và tròn, còn mang vết tích của lá; quy thân hay quy thoái là phần dưới của rễ chính hoặc là rễ phụ lớn; quy vĩ là phần rễ phụ hay rễ nhánh nhỏ và toàn quy gồm toàn rễ cái và rễ phụ.

Mô tả Huyền sâm hoạt chất của Thuốc Dưỡng nhan tố

Tên gọi, danh pháp

Tên Tiếng Việt: Huyền sâm.

Tên khác: Đại nguyên sâm, Huyền đài, Hắc sâm, Trục mã, Phức thảo, Huyền vũ tinh, Dã chi ma, Lăng tiêu thảo, Nguyên sâm.

Tên khoa học: Radix Scrophulariae Ningpoensis thuộc họ Mõm chó (Scrophulariaceae).

Đặc điểm tự nhiên

Huyền sâm là một loài thực vật thân thảo sống lâu năm. Thân cây huyền sâm có hình dạng vuông và có chiều cao khoảng 1.7 - 2.3 mét. Cây có lá mọc đối xứng, với cuống lá dài. Một đặc trưng của lá huyền sâm là màu tím xanh, và phiến lá có hình dạng dài hình trứng với răng cưa ở mép lá.

Cây huyền sâm thường có hoa nở vào mùa hè. Hoa huyền sâm mọc thành chùy tròn, có hình dạng giống môi và có màu tím xám. Quả của cây có hình dạng hình trứng và thường xuất hiện dưới dạng cặp. Bên trong quả chứa nhiều hạt nhỏ có màu đen.

Rễ của cây huyền sâm phát triển mạnh mẽ và có kích thước lớn, thường dài khoảng 10 - 20 cm. Vỏ của rễ có màu vàng nhạt hoặc trắng, nhưng sau khi được chế biến, màu sắc thường chuyển sang màu nâu nhạt. Ruột bên trong rễ mềm dẻo và có màu đen, do đó có tên gọi là huyền sâm.

Cây huyền sâm trong tự nhiên

Phân bố, thu hái, chế biến

Cây huyền sâm hiện nay đã có ở một số khu vực nước ta, trước đây có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Huyền sâm được sản xuất chủ yếu ở tỉnh Tứ Xuyên, nơi được gọi là "Xuyên huyền sâm" hoặc "Thổ huyền sâm". Cây thường được trồng vào đầu mùa hạ và thu hoạch vào mùa thu. Khu vực chính trồng huyền sâm ở Tứ Xuyên bao gồm Đạt Huyện, Ôn Giang, Vạn Huyện và Bồi Lăng.

Ngoài ra, huyền sâm cũng được sản xuất ở tỉnh Triết Giang, đây được gọi là "Quảng huyền sâm". Cây thường được trồng vào đầu năm và thu hoạch vào cuối năm. Các khu vực chính của trồng huyền sâm ở Triết Giang bao gồm Đông Dương và Tiêu Cư.

Loại huyền sâm này cũng được sản xuất ở các tỉnh khác như Sơn Đông, Hồ Bắc, Giang Tây, Thiểm Tây, Quý Châu, Cát Lâm và Liêu Ninh. Ngoài việc trồng trọt, cây huyền sâm cũng có thể được khai thác từ cây mọc hoang dại trong các tỉnh này.

Trồng huyền sâm trong nước ta mới được thực hiện gần đây và có thể trồng ở cả đồng bằng và miền núi với hiệu suất cao và chất lượng tốt.

Rễ huyền sâm được thu hoạch thường vào tháng 10 - 11 hàng năm. Sau khi đào lấy rễ, chúng được rửa sạch và cắt bỏ các rễ con, sau đó được phân loại theo kích thước. Sau đó, có những phương pháp bào chế dược liệu như sau:

  • Phương pháp ủ và phơi khô: Rễ được rửa sạch, ủ cho mềm, sau đó cắt thành lát và phơi khô.
  • Phương pháp chín trên cỏ xác: Rễ được rửa sạch, sau đó lót lên cỏ xác và xếp lên trên. Sau đó, để cho rễ chín và sau đó phơi khô để sử dụng dần.
  • Bào chế thổ huyền sâm: Sau khi thu hoạch, rễ được rửa sạch với nước, sau đó được sấy khô một nửa. Sau đó, đặt dược liệu vào một đống trong khoảng 2 - 3 ngày và phủ kín bằng cỏ rạ, để ruột chuyển thành màu đen. Tiếp theo, dược liệu được sấy khô khoảng 9 phần, đặt vào một chảo và đảo cho đất cát và rễ củ rơi ra hết. Cuối cùng, dược liệu được phân loại và bảo quản để sử dụng dần.
  • Bào chế huyền sâm Triết Giang: Sau khi thu hoạch, rễ được phơi nắng ngay, nên sấy khô một nửa. Sau đó, đặt dược liệu vào một đống trong 2 - 3 ngày, tiếp theo phơi khô trong 40 ngày để dược liệu khô hoàn toàn.

Sau khi được bào chế, dược liệu huyền sâm có hình dạng trụ, dài khoảng 12 - 15 cm, rộng 25 mm. Bề ngoài của nó có màu nâu đất, bên trong có màu đen và có cấu trúc cứng dẻo. Dạng bột của huyền sâm có màu đen nhạt, mang hương vị mặn và ngọt.

Bộ phận sử dụng

Bộ phận sử dụng để làm thuốc của cây huyền sâm là rễ.

Vị thuốc Huyền sâm

Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Dưỡng nhan tố đang được ThuocViet cập nhật


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm: Mọi thông tin trên web ThuocViet.Org chỉ mang tính chất tham khảo. Việc sử dụng thuốc phải thông qua hướng dẫn và chỉ định của bác sĩ, người có chuyên môn. Không tự ý dùng thuốc khi không có hướng dẫn, chỉ định.

Sản phẩm liên quan


Sản phẩm cùng hãng

Chủ đề

Bình luận

Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này

Đánh giá

0
Điểm đánh giá
(0 lượt đánh giá)
0 %
4.00
0 %
3.00
0 %
2.00
0 %
4.00
0 %
1 2 3 4 5
Thêm giỏ hàng
Gọi Tư Vấn Miễn Phí Chat nhanh đặt hàng Chat với Dược Sĩ