Thuốc Cao lỏng Thiên vương bổ tâm
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 1 chai 280 ml (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Cao lỏng Thiên vương bổ tâm được sản xuất từ các hoạt chất Chai 280 ml cao lỏng chứa các chất được chiết từ: Sinh địa 19,6g, Thiên môn 5,6g, Mạch môn 5,6g, Ngũ vị tử … với hàm lượng tương ứng
Mô tả Mạch môn (Rễ) hoạt chất của Thuốc Cao lỏng Thiên vương bổ tâm
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Mạch môn.
Tên khác: Tóc tiên, Lan tiên, Xà thảo, Duyên giới thảo, Mạch môn đông, Mạch đông.
Tên khoa học: Ophiopogon japonicus Wall, thuộc họ Thiên môn Asparagaceae.
Đặc điểm tự nhiên
Cây thân thảo, sống nhiều năm, có thân ngắn mang nhiều rễ củ mập. Lá hình dải dẹp, dài 15 – 30 cm, rộng 2 – 4 cm, nhẵn, gốc có bẹ to hình màng, đầu nhọn, có 5 – 7 gân lá song song, nổi rõ, mặt trên màu xanh lục sẫm, mặt dưới có màu trắng nhạt.
Cụm hoa là một chùm dài 10 – 20 cm, cuống có cạnh; hoa màu lục nhạt hoặc xanh lơ sáng; lá bắc không màu hoặc màu trắng nhạt; bao hoa có 6 phiến thuôn; hoa có 6 nhị, chỉ nhị rất ngắn, bao phấn hình mũi mác.
Quả mọng, màu tím đen nhạt, đường kính 6 mm, bên trong chứa 1 – 2 hạt.
Cây Mạch môn trong tự nhiênPhân bố, thu hái, chế biến
Tại Việt Nam, cây Mạch môn thường mọc hoang và cũng được trồng từ lâu đời, nhiều nhất ở vùng Nghĩa Trai (Hưng Yên), Ninh Hiệp (Hà Nội). Cây được trồng ở nhiều nơi thành các luống nhỏ dọc lối đi, bao quanh sân để làm cảnh và làm thuốc. Cây ưa ẩm, chịu bóng, ra hoa quả hàng năm. Cây có khả năng sinh nhánh khỏe, từ 2 – 3 nhánh con sau 1 năm đem trồng có thể phát triển thành một khóm lớn với hàng chục nhánh con.
Cây có thể được trồng bằng nhánh quanh năm, tốt nhất vào mùa xuân. Mạch môn không kén đất trồng, nhưng các vùng đất thịt nhẹ, đất cát pha, cao ráo thoát nước thích hợp hơn.
Thu hoạch rễ củ của các cây khoảng 2 – 3 năm tuổi vào tháng 6 – 7 hàng năm. Chọn những củ già, cắt bỏ toàn bộ rễ con, rửa sạch đất, củ to trên 6 mm bổ làm đôi, củ nhỏ để nguyên, phơi khô, rút bỏ lõi trước khi sử dụng. Cũng có thể sau khi thu hái về tước bỏ lõi, rang với gạo cho đến khi gạo có màu vàng nhạt, bỏ gạo, lấy Mạch môn mà dùng. Củ Mạch môn tốt có hình thoi, màu vàng nhạt, hơi trong, dài khoảng 10 – 15 mm, mùi đặc trưng, vị ngọt.
Quả cây Mạch mônBộ phận sử dụng
Rễ củ của cây Mạch môn (Radix Ophiopogonis japonici) được sử dụng làm thuốc.
Mô tả Mạch môn hoạt chất của Thuốc Cao lỏng Thiên vương bổ tâm
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Mạch môn.
Tên khác: Mạch môn đông, Tóc tiên, cây Lan tiên, Xà thảo lá dài.
Tên khoa học: Ophiopogon japonicus (Thunb.) Ker Gawl., họ Thiên môn đông - Asparagaceae.
Đặc điểm tự nhiên
Mạch môn là một loại cây thân cỏ sống lâu năm. Cây mạch môn thường cao từ 10cm đến 40cm, với rễ chùm phát triển từ rễ gốc. Trên rễ mạch môn, có những chỗ phát triển thành củ mầm, giúp cây tồn tại và phát triển trong môi trường khắc nghiệt.
Lá của mạch môn mọc từ gốc và có hình dạng hẹp dài, tương tự như lá của cây lúa mạch. Chiều dài của lá có thể dao động từ 15cm đến 40cm, trong khi chiều rộng từ 1mm đến 4mm. Phần cuối của cuống lá thường có một chút xếp bẹ, và mép lá có những răng cưa nhỏ. Một đặc điểm đặc biệt của mạch môn là sự phân bố của lá, tạo nên một hình dạng tổng thể mở rộng và thân cây có thể trông rất đẹp.
Cán hoa của mạch môn dài khoảng 10cm đến 20cm, mang theo những hoa nhỏ màu xanh nhạt. Cuống hoa có độ dài từ 3mm đến 5mm và các hoa tụ lại thành 1-3 hoa ở các kẽ giữa các lá. Những hoa này thường có màu trắng nhạt và tạo nên một cảnh quan tinh tế và thu hút.
Quả của mạch môn là những quả mọng có màu tím đen nhạt, có đường kính khoảng 6mm. Mỗi quả thường chứa 1-2 hạt bên trong, đóng vai trò trong quá trình phân tầng của cây.
Cây mạch mônPhân bố, thu hái, chế biến
Phân bố: Mạch môn xuất phát từ Nhật Bản, hiện nay được trồng làm cây cảnh và sử dụng làm dược liệu ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, mạch môn là một cây thuốc được trồng từ lâu đời. Đây là một loại cây ưa ẩm, thích môi trường bóng mát và năm nào cũng ra hoa và quả. Hiện chưa có quan sát về việc cây mạch môn mọc từ hạt. Cây có khả năng phát triển nhánh mạnh mẽ; chỉ cần trồng 2 - 3 nhánh con, sau 1 năm, cây sẽ phát triển thành một khóm lớn với hàng chục nhánh con. Mạch môn có thể được tìm thấy mọc tự nhiên và được trồng ở nhiều vùng phía Bắc như Hà Nam, Bắc Giang, Nghệ An, Hưng Yên và các vùng khác.
Thu hái: Thường vào tháng 6 - 7, khi cây mạch môn đã đạt tuổi 2 - 3 năm, người ta thường chọn những củ già, sau đó cắt bỏ rễ con và rửa sạch đất.
Chế biến: Rễ củ được xếp thành đống, phơi nắng nhiều lần để cho đến khi củ khô gần đạt khoảng 70% - 80% độ ẩm. Sau đó, rễ củ được đập dẹt và lõi bên trong được rút bỏ. Cuối cùng, rễ củ được tiếp tục phơi khô. Có khi sau khi thu hoạch, rễ củ được rạch và tước bỏ lõi, sau đó được rang cùng với gạo cho đến khi gạo có màu vàng nhạt. Sau khi rang, gạo được tách ra và chỉ mạch môn được sử dụng.
Bộ phận sử dụng
Rễ củ của cây mạch môn được thu hái khi cây đã 2 - 3 tuổi vào tháng 6. Khi thu hoạch, rễ con được cắt bỏ và sau đó rửa sạch để loại bỏ đất bám. Nếu củ nhỏ, chúng có thể được để nguyên, trong khi củ to có thể được chia đôi để tăng khả năng sấy khô. Sau đó, rễ củ được phơi khô. Trước khi sử dụng, cần cắt bỏ phần lõi của rễ củ.
Rễ củ mạch môn là bộ phận được thu hái để sử dụng làm thuốcMô tả Ngũ vị tử hoạt chất của Thuốc Cao lỏng Thiên vương bổ tâm
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Ngũ vị tử
Tên khác: Sơn hoa tiêu; ngũ mai tử; huyền cập; Ngũ vị tử bắc
Tên khoa học: Schisandra chinensis (Turcz) Baill. thuộc họ Schisandraceae (Ngũ vị tử). Cây ưa sống ở vùng có khí hậu ẩm mát núi cao từ 1300 đến 1600m.
Trong tự nhiên ghi nhận có ba loại ngũ vị tử: Bắc ngũ vị – Schisandra Chinensis Baill, Nam ngũ vị – Kadsura Japonica L. (quả của cây nắm cơm), Mộc lan – Magnoliaceae. Loại được dùng làm thuốc chủ yếu là bắc ngũ vị tử.
Đặc điểm tự nhiên
Bắc ngũ vị tử thuộc loại dây leo to sống nhiều năm, có thể dài tới 7 - 8 m, vỏ của thân và cành màu xám nâu, cành nhỏ hơi có cạnh. Lá mọc kiểu so le, phiến lá hình trứng, bề dài lá khoảng 5 - 11 cm, bề rộng 3 – 7 cm, mép lá hình răng cưa nhỏ, mặt trên có màu sẫm hơn, có lông ngắn trên những gân lá non ở mặt dưới. Hoa đơn tính, khác gốc: Cánh hoa 6 - 9, màu vàng trắng nhạt, nhị 5. Quả hình cầu, mọng nước, có màu đỏ sẫm khi chín, đường kính 0.5 - 0.7 cm, 1 quả chứa 1 - 2 nhân hạt hình thận, màu vàng nâu bóng.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ngũ vị tử chỉ mọc ở một số nước có khí hậu lạnh như: Nga, Mông Cổ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc..., là cây thuốc có vùng phân bố hạn chế tại Việt Nam nên đa phần dược liệu ngũ vị tử được nhập từ Trung Quốc.
Vào tháng 9 tháng 10 hàng năm, người ta hái quả ngũ vị tử chín về rồi nhặt bỏ cuống, phơi hoặc sấy khô dùng làm thuốc. Bảo quản dược liệu bằng cách tránh để gần nguồn nước, tránh ẩm mốc, côn trùng, sâu mọt để kéo dài thời gian sử dụng.
Theo cách dùng trong dân gian thì trộn ngũ vị tử cùng với rượu theo tỉ lệ (5:1) sau đó đun cách thủy trong 4 giờ đến khi cạn hết rượu, quả ngũ vị tử chuyển sang màu đen thì đem phơi hay sấy khô là được.
Bộ phận sử dụng
Quả ngũ vị tử chín được dùng bào chế thuốc.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Cao lỏng Thiên vương bổ tâm đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này