Tam lăng
Tìm hiểu chung
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Tam lăng.
Tên khác: Tam lăng; Hắc tam lăng; Kinh tam lăng; Cồ nốc mảnh; Lòng thuyền.
Tên khoa học: Curculigo gracilis (Kurz) Hook. f
Đặc điểm tự nhiên
Tam lăng là một loại cây thảo lớn, sống lâu năm. Chiều cao trung bình khoảng 1 mét. Các lá tập trung từ gốc. Các bẹ lá lớn liên kết với nhau tạo thành các giả phân sinh trên mặt đất. Các lá có thể hình dải hoặc hình mác. Gốc và đầu lá nhọn, cuống lá dài. Các lá dài khoảng 40 - 60cm và rộng 7 - 10cm. Lá có nhiều gân song song nổi rõ.
Các bẹ lá to của Tam lăng liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành các giả phân sinh trên mặt đất.
Hoa mọc thành chùm hay chùm giữa các cụm lá. Đầu bông hoặc vương miện. Cuống dài khoảng 20cm, mọc thẳng hoặc cong. Có nhiều lá bắc to, hình ngọn giáo, phủ nhiều lông dày đặc. Nhiều hoa, màu vàng. Đài hoa có 3 răng nhọn, mặt sau có lông. Bao hoa 6, xếp thành 2 vòng. Nhị 6, xếp thành 2 nhị. Không có nhị hoa. Bầu, 3 ô, có lớp lông dày bao quanh.
Phân bố, thu hái, chế biến
Ở Trung Quốc, cây mọc ở các tỉnh phía Nam như Vân Nam, Hải Nam, Quảng Tây.
Ở Việt Nam, Tam lăng có ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc và các tỉnh Tây Nguyên.
Loại cây này đặc biệt ưa ẩm ướt và ưa bóng râm. Thường mọc thành từng khóm lớn ven sông. Độ cao phân bố khoảng 400 - 1300 mét. Cây này ra trái hàng năm. Khi chín, quả tự mở ra. Cây có thể tái sinh tự nhiên từ hạt.
Hiện nay, loại thảo dược này được trồng ở nhiều vùng núi, miền Trung và đồng bằng. Ngoài trồng làm thuốc, nó còn được dùng làm cây cảnh.
Bộ phận sử dụng
Thân, rễ.
Thành phần hoá học
Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào được công bố xác định thành phần hóa học của loài Tam lăng Việt Nam.
Giống của Trung Quốc có chứa phenylpropanoid, alkaloid, flavonoid, acid béo, tinh dầu, steroid, anthraquinon, glycosid và các nguyên tố vô cơ khác như kẽm, mangan, kali, đồng…
Các loài ở Tây Phi cũng chứa các chất tương tự như phenylpropane, chất xơ, flavonoid, anthraquinon, tinh bột.
Liều dùng & cách dùng
Sau khi đào xong thân rễ của Tam lăng, hãy rửa sạch chúng. Loại bỏ phần rìa ở rễ, cạo sạch vỏ ngoài rồi để khô. Tam lăng có thể được ăn sống hoặc chế biến với giấm.
Loại thảo mộc này dễ bị nấm mốc, vì vậy cần bảo quản ở nơi khô ráo, tránh ẩm ướt.
Liều lượng: 3 - 10g mỗi liều. Tham khảo thêm ý kiến của bác sĩ đông y.
Lưu ý
Thuốc này chỉ an toàn khi sử dụng trong thời gian ngắn.
Vì thuốc có tác dụng hoạt huyết khử ứ rất mạnh, phụ nữ có thai không nên dùng.
Thuốc có đặc tính chống đông máu, vì vậy cần thận trọng khi dùng với thuốc chống đông máu và thuốc chống kết tập tiểu cầu. Vì nó có thể làm tăng nguy cơ chảy máu không kiểm soát.
Bài thuốc kinh nghiệm
Chữa chứng đầy hơi
Tam lăng nướng, rễ Rẻ quạt tẩm rượu, Nga truật nướng, hạt gấc bỏ vỏ, Mộc thông, Hương phụ, Binh lang. Tất cả nghiền thành bột. Mỗi lần uống 4g, hãm với nước sôi, uống khi bụng đói.
Thuốc chữa bệnh kiết lỵ
Tam lăng sao 80g, Nga truật sao 80g, Trần bì sao đen 80g, bách thảo sương rang 40g, hắc sửu phơi khô sao vàng 30g, riềng sao đen 30g, nhục đậu khấu 20g, sa nhân 12g, liên kiều 12g, binh lang 30g.
Tất cả các loại bột, luyện với đường theo tỷ lệ 1 đường : 4 thuốc. Dùng 32 gram mỗi ngày cho người lớn và 4 - 8g mỗi ngày cho trẻ em.
Trị huyết ứ, vô kinh, đau bụng sau sinh
Tam lăng, Hồng Hoa, Nga truật, Đương quy, Đào nhân sắc uống ngày 2 lần.
Kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, máu đông
Tam lăng, Đào nhân, Đương quy, Nga truật, Hồng Hoa, Uất kim, uống khi còn ấm, ngày 3 lần.
Đỗ Huy Bích (2006), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội
Sparganium stoloniferum (Buch.-Ham. ex Graebn.) Buch.-Ham. ex Juz, http://www.theplantlist.org/tpl1.1/record/kew-266175 , ngày truy cập 21/01/2021
Carl-Hermann Hempen (2009), A Materia Medica for Chinese Medicine – plants, minerals and animal products, Churchill Livingstone.
Jia J et al. (2020), “Sparganii Rhizoma: A review of traditional clinical application, processing, phytochemistry, pharmacology, and toxicity”. Journal of Ethnopharmacology. 268:113571
Cui-Cui Zhu (2010), Chemical Constituents from Rhizomes of Curculigo breviscapa, Bull. Korean Chem. Soc., Vol. 31, No. 1, p.224-226