Thuốc Tai biến Nhất Nhất
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 3 vỉ x \n10 viên, hộp 12 vỉ x 10 viên, hộp 1 lọ 30 viên, hộp 1 lọ 60 viên, Hộp 3 vỉ x 10 viên, hộp 12 vỉ x 10 viên, hộp 1 lọ 30 viên, hộp 1 lọ 60 viên (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Tai biến Nhất Nhất được sản xuất từ các hoạt chất Băng phiến 26,6 mg, ,500mg cao khô tương đương với: Nhân sâm 800 mg, Đương quy 800 mg, Tần Giao 800 mg, Mạch môn 533,3 mg … với hàm lượng tương ứng 300mg
Mô tả Đương quy (Ngọn, Rễ, Thân) hoạt chất của Thuốc Tai biến Nhất Nhất
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Đương quy.
Tên khác: Vân quy, Tần quy, Xuyên quy, Nhân sâm cho phụ nữ.
Tên khoa học: Angelica sinensis (Oliv) Deils. Họ: Apiaceae (Hoa tán).
Tên đồng nghĩa: Angelica polymorpha Maxim. var. sinensis Oliv.
Đặc điểm tự nhiên
Đương quy Trung Quốc (Angelica sinensis)
Đương quy Trung Quốc là loài cây nhỏ, sống lâu năm. Cây có thể cao từ 40 đến 80cm, hoặc có thể cao đến 1m khi cây có hoa. Thân cây màu tím, có dạng hình trụ, có rãnh dọc. Lá mọc so le, 2 đến 3 lần xẻ lông chim, cuống dài 3 đến 12 cm, gốc phát triển thành bẹ to, đầu nhọn, 3 đôi lá chét. Đôi lá chét phía dưới có cuống dài, đôi lá chét phía trên đỉnh không có cuống; lá chét lại xẻ từ 1 đến 2 lần nữa, mép chia thùy và răng cưa không đều, phía dưới cuống phát triển dài gần một nửa chiều dài cuống, ôm lấy thân. Rễ cây đương quy rất phát triển.
Cụm hoa mọc ở ngọn hợp thành tán kép gồm 12 đến 40 hoa. Cụm hoa dài ngắn không đều, hoa nhỏ có màu lục nhạt hoặc màu xanh trắng.
Quả bế dẹt, có rìa màu tím nhạt. Toàn thân nhẵn và có mùi thơm rất đặc biệt.
Mùa hoa quả thường vào khoảng tháng 7 đến tháng 8.
Sinh thái: Đây là loài cây ưa khí hậu ẩm mát vùng núi. Đương quy được nhân giống bằng hạt. Thời gian trồng đến khi có thể thu hoạch là từ 3 năm trở lên.
Phân bố, thu hái, chế biến
Đa phần các giống đương quy đều có nguồn gốc ở vùng ôn đới, như ở Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Cây thường mọc ở các vùng núi cao với khí hậu ẩm mát. Tại Trung Quốc, đương quy được trồng nhiều nhất ở các tỉnh Cam Túc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Thiểm Tây.
Ở nước ta, dược liệu này đang được trồng trong phạm vi nhỏ ở Sapa (tỉnh Lào Cai) hoặc các tỉnh Lai Châu, Hòa Bình, Lào Cai, chưa phổ biến rộng rãi. Đương quy trồng ở Việt Nam cũng phải lựa chọn thời vụ, sao cho mùa gieo hạt và sinh trưởng của cây trùng với thời gian có nhiệt độ thấp nhất trong năm, tuy nhiên chất lượng cây trồng ở vùng đồng bằng có khác so với cây được trồng ở vùng núi cao.
Hằng năm vào mùa thu gieo hạt, cuối thu đầu đông nhổ cây con cho vào hố ở dưới đất cho qua mùa động. Qua mùa xuân lại trồng, đến mùa đông lại bảo vệ. Đến mùa thu năm thứ 3 có thể thu hoạch. Đào rễ về cắt bỏ rễ con, phơi trong nhà hoặc cho vào trong thùng, sấy lửa nhẹ, cuối cùng phơi trong mát cho khô.
Bộ phận sử dụng
Chỉ thu hái khi dược liệu trồng được 3 tuổi trở lên, Thời điểm để đào rễ tốt nhất là vào mùa thu. Sau khi thu hoạch, người dân cắt bỏ phần lá và rễ con, giữ lại phần rễ, phơi trong râm hoặc cho vào thùng sấy lửa nhẹ đến khô. Củ to, thịt chắc, dẻo, màu trắng hồng, nhiều tinh dầu, có mùi thơm đặc biệt, vị ngọt sau cay là loại tốt.
Khi dùng thì bào chế như sau: Rửa qua rễ bằng rượu (nếu không có rượu thì rửa nhanh bằng ít nước, sau vẩy cho ráo nước). Ủ một đêm cho mềm, bào mỏng 1mm. Nếu muốn để được lâu, rửa bằng nước và muối; sau đó, phải sấy nhẹ qua lưu huỳnh hoặc đốt xông nóng (không đốt trực tiếp), cho đến khi dược liệu có màu đỏ tươi hay màu vàng kim tuyến, rồi sấy than. Theo kinh nghiệm nhân dân Trung Quốc, không phơi chỗ râm mát (đương quy có màu xanh) và cũng không phơi nắng (mất tinh dầu).
Đương quy được phân thành nhiều loại: Quy đầu rễ chính và một bộ phận cổ rễ, đường kính từ 1,5 đến 4 cm, đầu tù và tròn, còn mang vết tích của lá; quy thân hay quy thoái là phần dưới của rễ chính hoặc là rễ phụ lớn; quy vĩ là phần rễ phụ hay rễ nhánh nhỏ và toàn quy gồm toàn rễ cái và rễ phụ.
Mô tả Nhân Sâm hoạt chất của Thuốc Tai biến Nhất Nhất
Tên thuốc gốc (Hoạt chất)
Ginseng (nhân sâm).
Loại thuốc
Sản phẩm thảo dược.
Dạng thuốc và hàm lượng
Bột rễ thô.
Cao lỏng: 1 củ nhân sâm khoảng 7g / chai 200ml
Viên nang mềm:
Cao nhân sâm đã định chuẩn (tương đương với 0,9 mg Ginsenoid Rb1, Rg1 và Re) 40 mg;
Chiết xuất nhân sâm Panax ginseng (4% ginsenosid) 40mg;
Viên sủi: Cao nhân sâm đã định chuẩn tương đương với 0,9 mg Ginsenoid Rb1, Rg1 và Re.
Chỉ định Nhân Sâm
Dùng trong trường hợp cơ thể suy yếu, mệt mỏi kiệt sức, suy nhược thần kinh, làm tăng sức đề kháng của cơ thể, chống thiếu máu.
Rễ nhân sâm được sử dụng rộng rãi với các tác dụng điều hòa miễn dịch, chống ung thư, tim mạch, thần kinh trung ương, nội tiết, nhưng những công dụng này chưa được xác nhận bởi các thử nghiệm lâm sàng.
Mô tả Mạch môn (Rễ) hoạt chất của Thuốc Tai biến Nhất Nhất
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Mạch môn.
Tên khác: Tóc tiên, Lan tiên, Xà thảo, Duyên giới thảo, Mạch môn đông, Mạch đông.
Tên khoa học: Ophiopogon japonicus Wall, thuộc họ Thiên môn Asparagaceae.
Đặc điểm tự nhiên
Cây thân thảo, sống nhiều năm, có thân ngắn mang nhiều rễ củ mập. Lá hình dải dẹp, dài 15 – 30 cm, rộng 2 – 4 cm, nhẵn, gốc có bẹ to hình màng, đầu nhọn, có 5 – 7 gân lá song song, nổi rõ, mặt trên màu xanh lục sẫm, mặt dưới có màu trắng nhạt.
Cụm hoa là một chùm dài 10 – 20 cm, cuống có cạnh; hoa màu lục nhạt hoặc xanh lơ sáng; lá bắc không màu hoặc màu trắng nhạt; bao hoa có 6 phiến thuôn; hoa có 6 nhị, chỉ nhị rất ngắn, bao phấn hình mũi mác.
Quả mọng, màu tím đen nhạt, đường kính 6 mm, bên trong chứa 1 – 2 hạt.
Cây Mạch môn trong tự nhiênPhân bố, thu hái, chế biến
Tại Việt Nam, cây Mạch môn thường mọc hoang và cũng được trồng từ lâu đời, nhiều nhất ở vùng Nghĩa Trai (Hưng Yên), Ninh Hiệp (Hà Nội). Cây được trồng ở nhiều nơi thành các luống nhỏ dọc lối đi, bao quanh sân để làm cảnh và làm thuốc. Cây ưa ẩm, chịu bóng, ra hoa quả hàng năm. Cây có khả năng sinh nhánh khỏe, từ 2 – 3 nhánh con sau 1 năm đem trồng có thể phát triển thành một khóm lớn với hàng chục nhánh con.
Cây có thể được trồng bằng nhánh quanh năm, tốt nhất vào mùa xuân. Mạch môn không kén đất trồng, nhưng các vùng đất thịt nhẹ, đất cát pha, cao ráo thoát nước thích hợp hơn.
Thu hoạch rễ củ của các cây khoảng 2 – 3 năm tuổi vào tháng 6 – 7 hàng năm. Chọn những củ già, cắt bỏ toàn bộ rễ con, rửa sạch đất, củ to trên 6 mm bổ làm đôi, củ nhỏ để nguyên, phơi khô, rút bỏ lõi trước khi sử dụng. Cũng có thể sau khi thu hái về tước bỏ lõi, rang với gạo cho đến khi gạo có màu vàng nhạt, bỏ gạo, lấy Mạch môn mà dùng. Củ Mạch môn tốt có hình thoi, màu vàng nhạt, hơi trong, dài khoảng 10 – 15 mm, mùi đặc trưng, vị ngọt.
Quả cây Mạch mônBộ phận sử dụng
Rễ củ của cây Mạch môn (Radix Ophiopogonis japonici) được sử dụng làm thuốc.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Tai biến Nhất Nhất đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này