Thuốc Phong thấp thủy - VTYT Quảng Ninh
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: chai 250ml, , chai 85ml, chai 85ml, Chai 250ml (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Phong thấp thủy được sản xuất từ các hoạt chất Ngũ gia bì,Cẩu tích,Kê huyết đằng,Ngưu tất,Hy thiêm,Cỏ xước,Quế,Cam Thảo,Đỗ Trọng với hàm lượng tương ứng 8,5g, 18g, 18g, 3g, 22,5g, 5g, 1g, 1g, 4g
Mô tả Cam thảo hoạt chất của Thuốc Phong thấp thủy
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cam thảo.
Tên khác: Lộ thảo, Cam thảo bắc.
Tên khoa học: Glycyrrhiza uralensis Fisch. Đây là một loài thực vật thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thảo sống lâu năm, cao 30 - 100 cm. Rễ dài màu vàng nhạt. Cơ thể có lông ngắn, mềm. Lá mọc so le, kép, có lông chim lẻ, gồm 9 - 17 lá chét hình bầu dục, nguyên. Cụm hoa ở nách lá, hoa nhỏ hơn, màu hoa oải hương. Vỏ quả cong hình lưỡi liềm, dài 3 - 4 cm, rộng 6 - 8 mm, màu nâu đen, có lông dày, chứa 2 - 8 hạt nhỏ dẹt, màu nâu bóng.
Loài Cam thảo nhẵn – Glycyrrhiza glabra L. cũng thường được sử dụng. Cây cao 1 - 1,5 m, cũng có rễ dài màu vàng nhạt. Lá kép lông chim lẻ có lá chét nguyên với hình trái xoan tù. Hoa nhỏ hợp thành chùm dài mọc đứng màu lơ tím sáng. Quả đậu dẹp thuôn, thẳng, hoặc hơi cong, không có lông, nhỏ hơn loài trên và chỉ chứa 2 - 4 hạt tròn.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ôn đới Âu Á, phân bố chủ yếu ở Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Afghanistan, Iran... Tai đã nhập giống từ Trung Quốc và Nga về trồng thử nghiệm ở Vĩnh Phú (Tam Đảo), Hà Nội, Hải Tây nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Ở nước ta, Cam thảo có thể nở hoa sau 3 năm sinh trưởng, nhưng năng suất thấp. Đến 5 tuổi cây ra hoa nhiều và cho quả cao hơn. Thời kỳ ra hoa nói chung là tháng 6 - 7, thời kỳ đậu quả là tháng 8 - 9. Người ta thu hoạch Cam thảo vào khoảng năm thứ năm, thường vào mùa đông khi cây chết. Tại thời điểm này, bộ rễ đã chắc, nặng, nhiều bột và chất lượng tốt. Dùng bàn chải để loại bỏ đất. Phân loại thành lớn, nhỏ và khô. Khi khô 50%, bó thành từng bó, sau đó phơi khô chỉ cắt phần ngọn, không lấy rễ nên vỏ vẫn giữ được màu nâu đỏ rất đẹp. Thường dùng dưới dạng Sinh thảo, Chích thảo, bột Cam thảo:
- Sinh thảo: Rửa sạch nhanh rồi đồ mềm, cắt thành lát mỏng 2mm lúc còn nóng; nếu không kịp cắt thì cho ngay vào nước lã, ủ cho mềm để khi cắt được dễ dàng. Sau đó, mang sấy hoặc phơi khô.
- Chích thảo: Sau khi sấy khô rồi đem tẩm mật (1kg Cam thảo phiến thì dùng 200g mật, pha thêm 200ml nước đun sôi) tẩm rồi sao cho vàng thơm. Nếu dùng ít, có thể thái thành khúc 5 – 10cm, cuộn vài lần bằng giấy bản, nhúng qua nước cho đủ ướt rồi vùi vào tro nóng, khi thấy giấy khô hơi xém thì bỏ giấy, cắt lát mỏng.
Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài, cắt miếng tròn. Sau đó sấy khô, nghiền thành bột mịn vừa. Bảo quản trong thùng kín và để nơi khô ráo.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được của Cam thảo là rễ và thân rễ.
Mô tả Cẩu tích hoạt chất của Thuốc Phong thấp thủy
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cẩu tích.
Tên gọi khác: Rễ lông cu li; kim mao cẩu tích; cây lông khỉ.
Tên khoa học: Cibotium barometz (L.) J. Sm.
Họ: Dicksoniaceae.
Đặc điểm tự nhiên
Thân rễ mọc đứng, thường ngắn, to, phủ lông mềm màu vàng nâu. Khi cắt hết lá còn lại những gốc cuống thì thân rễ lúc này giống con cu li. Đoạn thân rễ đã loại bỏ lớp lông màu vàng nâu bên ngoài, mặt ngoài rất gồ ghề, khúc khuỷu, có những chỗ lồi lên thành mấu, màu nâu hoặc nâu hơi hồng, đường kính 2 - 5 cm, dài 4 - 10 cm, rất cứng, khó cắt, khó bẻ gẫy; đôi khi còn sót lại ít lông màu vàng nâu. Dược liệu khi dùng thường đã thái thành phiến mỏng hình dạng thay đổi, mặt cắt ngang nhẵn, màu nâu hồng hay nâu nhạt, có vân.
Thân cây thường yếu, nhưng cũng có thể cao 2,5 - 3 m. Lá kép dài 1 - 2 m, chia nhiều lá chét xếp dạng lông chim, các lá chét này chia thành nhiều lá chét bậc hai xếp sít nhau, lá chét bậc hai có gốc bằng nhau, đầu thon mảnh, lại chia thành nhiều đoạn thuôn hẹp, mặt trên màu lục thẫm, mặt dưới nhạt hơn; cuống lá kép rất to và cứng, màu nâu, cũng có lông mềm.
Cơ quan sinh sản là những túi bao tử có áo màu nâu, mọc ở mặt dưới lá, xếp đều đặn ở hai bên gân giữa, trong đựng nhiều bào tử, bao tử hình tam giác hay hơi tròn, sần sùi, màu sang hay đen nhạt, có cánh.
Mùa sinh sản: Tháng 10 - 1.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cẩu tích mọc hoang khấp nơi ở miền rừng núi Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Philipin, Malaixia và Inđônêxia. Miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Vân Nam) cũng có.
Thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào cuối thu sang đông. Khi hái về thì rửa sạch cắt bỏ rễ con, cuống lá và lông vàng phủ xung quanh thân rễ, thái mỏng, phơi khô. Có khi đồ hơi nước rồi mới phơi, làm như vậy nhiều lần; có khi lại còn đổ với đậu đen chín lần đồ, chín lần phơi rồi cuối cùng thái mỏng phơi khô.
Bộ phận sử dụng
Thân rễ.
Mô tả Cỏ xước (Rễ) hoạt chất của Thuốc Phong thấp thủy
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cỏ xước
Tên khác: Cây ngưu tất, Bách bội, Ngưu kinh, Hoài ngưu tất, Cây bách bội, Hồng ngưu tất, Ngưu tịch, Cỏ xước, Ngưu tất nam, Nhả khoanh ngù (Tài), Cỏ nhả lìn ngu (Thái), Hà ngù.
Tên khoa học: Achyranthes aspera L.
Đặc điểm tự nhiên
Cây Cỏ xước là một loài thực vật thân thảo, mảnh, hơi vuông, sống nhiều năm. Cây có chiều cao dao động từ 1 – 2 m, có lông mềm bao phủ quanh thân. Rễ màu vàng, hình trụ dài, khá nhỏ, bé dần từ cổ rễ đến chóp rễ, đường kính chừng 2 - 5 mm, dài 20 cm. Mặt ngoài màu nâu nhạt, nhẵn đôi khi hơi nhăn, có vết sần của rễ con.
Lá mọc đối, nhọn ở đầu, kích thước khoảng 2 – 4 cm bề ngang và 5 – 12 cm chiều dài. Trên lá có phiến hình trứng, mọc đối, mép nguyên lượn sóng, có cuống nhỏ.
Hoa mọc thành cụm, chiều dài cả chùm bông khoảng 20 – 30 cm. Hoa nhỏ, đều, lưỡng tính, mẫu 5, không có cánh hoa, có 1 lá bắc và 2 lá bắc con. Lá bắc rải rác có lông dài màu trắng, một gân dọc nổi rõ ở giữa. Bông hoa có thể phát triển từ kẽ lá hoặc ngay đầu cành. Lá đài 5, hơi không đều, rời, hình bầu dục thuôn nhọn. Nhị 5, nhị lép có nhiều tua viền ở đầu. Bầu hình trụ.
Quả dạng quả nang, dài 2 - 3 mm, màu nâu, có thành mỏng dính vào hạt. Lá bắc nhọn giống gai, dễ bám vào vật khác như quần áo. Hạt hình trứng nhỏ và dài, dày 1 mm.
Phân bố, thu hái, chế biến
Trên thế giới, Cỏ xước là cây của vùng nhiệt đới. Cây phân bố ở Lào, Campuchia, Thái Lan,… Ở Việt Nam, cây phân bố rải rác ở các tỉnh đồng bằng, trung du, thường thấy ở ven đường, bờ sông, bãi cỏ, bờ bụi, quanh vườn nhà,…
Là cây ưa ẩm, ưa sáng, hơi chịu bóng, thường mọc ở nơi đất ẩm ven đường, quanh vườn và bãi hoang, ưa đất ẩm, nhiều mùn. Cây mọc từ hạt từ cuối mùa xuân, sinh trưởng nhanh vào mùa hè. Quả có lá bắc tồn tại, nhờ gió phát tán đi khắp nơi. Hoa có móc, thường móc, dính vào quần áo những người làm lườn, người đi đường.
Cây mọc hàng năm, phát triển mạnh từ tháng 2 đến tháng 10 hàng năm. Thu hoạch quanh năm. Cả cây được đem về rửa sạch, cắt riêng phần rễ, thân , lá, thái mỏng rồi đem phơi hoặc sấy khô.
Trường hợp chỉ thu hoạch rễ, vụ thu hoạch chủ yếu là vào mùa đông. Lúc này thân và lá đang héo khô và rễ đã phình to. Rễ cây được đào lên, cắt bỏ rễ nhỏ. Phơi rễ cho đến khi vỏ ngoài nhăn lại rồi hun khói vài lần với lưu huỳnh. Cuối cùng, cắt bỏ phần đầu nhọn của rễ, thái lát mỏng, phơi khô.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng làm thuốc là thân, lá và rễ cây. Người ta thường đào cả cây đem về rửa sạch, hong khô và cắt khúc nhỏ. Sử dụng cây Cỏ xước sẽ giúp cho cơ thể tăng bài thải chất độc, lọc thận, lợi tiểu. Đặc biệt, trà làm từ cỏ xước rất dễ sử dụng, thơm ngon bổ dưỡng, tăng cường sức đề kháng cho người bệnh.
Toàn cây, đặc biệt là thân và rễ được sử dụng làm thuốc.
Bộ phận dùng: Toàn thân cây. Trong đó, phần rễ được sử dụng làm thuốc chữa bệnh nhiều nhất.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Phong thấp thủy đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này