Thuốc Pharnanca - Dược phẩm Hà Tây
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 5 vỉ x 10 viên (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Pharnanca được sản xuất từ các hoạt chất Cao khô hỗn hợp dược liệu (tương ứng với Cam thảo 20 mg, Bạch mao căn 400 mg, Bạch thược 400 mg, Đan sâm 400 mg, Bản lam căn 300 mg, Hoắc hương 300 mg, Sài hồ 400 mg, Liên kiều 300 mg, Thần khúc 300 mg, Chỉ thực 400 mg, Mạch nha 300 mg, Nghệ 400 mg) 500 mg với hàm lượng tương ứng 500 mg
Mô tả Bạch mao căn hoạt chất của Thuốc Pharnanca
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Bạch mao căn.
Tên khác: Rễ cỏ tranh; Vạn căn thảo.
Tên khoa học: Imperata cylindrica Beauv, thuộc họ Poaceae (lúa).
Đặc điểm tự nhiên
Cây Cỏ tranh là một loại sống dai với thân cao khoảng 30 - 90cm, lá hẹp dài 15 – 30cm, rộng 3 – 6mm, gân lá ở giữa phát triển, mép lá sắc, ở mặt trên ráp và mặt dưới nhẵn. Cụm hoa hình chuỳ màu trắng bạc dài khoảng 5 – 20cm, bông nhỏ phủ đầy lông nhỏ mềm, rất dài.
Thân rễ hình trụ, phát triển rất chắc khỏe, dài 30 - 40cm, đường kính 0,2 - 0,4cm. Mặt ngoài có màu từ trắng ngà đến vàng nhạt, có nhiều nếp nhăn dọc và nhiều đốt, mỗi đốt dài khoảng 1 - 3,5cm, trên các đốt có thể thấy vết tích còn sót lại của lá vẩy và của rễ con.
Dược liệu dai nhưng có thể bẻ gãy ở các đốt, mặt bẻ có sợi. Mặt cắt ngang có hình gần tròn, mặt ngoài lồi lõm không đều, rách nứt ở giữa. Phần tủy có phát quang màu xanh lơ, phần vỏ phát quang màu vàng nhạt dưới ánh sáng đèn tử ngoại 366mn. Dược liệu không mùi, nếm lúc đầu không vị, sau hơi ngọt.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây cỏ tranh là loài có sự phân bố rộng rãi khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở châu Á, châu Mỹ, châu Phi, châu Đại Dương và một số khu vực ở Nam Âu. Ở châu Á, cỏ tranh phân bố ở hầu hết các nước ở Nam Á, Trung Á, Đông Nam Á, Đông Dương và các tỉnh miền Nam Trung Quốc, bao gồm cả đảo Hải Nam.
Ở nước ta, cỏ tranh mọc hoang ở khắp nơi từ các đảo đến vùng đồng bằng, trung du và miền núi đến các độ cao hơn 2000m. Cây sống dai, là loại ưa sáng, mọc được trên nhiều loại đất, khả năng chịu hạn cao nhờ có bộ rễ đặc biệt phát triển. Ở thời kỳ tăng trưởng mạnh nhất, tổng khối lượng chất xanh gần tương đương với phần khối lượng dưới mặt đất.
Mùa ra hoa quả của cỏ tranh là quanh năm, nhưng tập trung nhiều nhất vào mùa đông. Mỗi bông chứa nhiều hạt nhẹ và có lông, phát tán khắp nơi nhờ gió. Theo các nhà sinh thái học Việt Nam, các vùng đồi cỏ tranh ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên là hậu quả cực đoan sau quá trình chuyển đổi đất rừng thành đất nông nghiệp. Cỏ tranh là hiểm họa đối với cây trồng và việc cắt và đốt thường xuyên phần trên mặt đất của cây không thể loại trừ được nó. Nhưng cũng rất khó khăn với việc đào bới thu hái những hết phần thân cỏ tranh dưới mặt đất.
Thu hoạch vào mùa thu hoặc mùa xuân. Khi trời khô ráo, đào lấy thân rễ dưới đất, bỏ phần rễ nổi trên mặt đất, rửa sạch, tuốt bỏ sạch bẹ, bỏ hết lông rễ con, đem phơi khô hoặc sấy khô.
Bạch mao căn: Thân rễ dưới mặt đất của cỏ tranh sau khi đào lên, đem rửa sạch, tẩm nước cho hơi mềm rồi cắt thành đoạn phơi khô, sàng bỏ chất vụn.
Mao căn thán: Lấy những đoạn Bạch mao căn cho vào nồi sao lửa mạnh tới khi dược liệu có màu nâu đen nhưng phải tồn tính, phun nước trong, lấy ra phơi khô.
Bộ phận sử dụng
Thân rễ, thường được gọi là Bạch mao căn. Hoa cũng được dùng.
Mô tả Bạch thược hoạt chất của Thuốc Pharnanca
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Bạch thược.
Tên khác: Dư dung, Kỳ tích, Giải thương, Kim thược dược, Mộc bản thảo, Tương ly, Lê thực, Đỉnh, Ngưu đỉnh, Khởi ly, Thổ cẩm, Quan phương, Cận khách, Diễm hữu, Hắc tân diêng, Điện xuân khách, Cẩm túc căn, Một cốt hoa, Lam vĩ xuân.
Tên khoa học: Radix Paeonia lactiflora (peony).
Đặc điểm tự nhiên
Rễ hình trụ tròn, thẳng hoặc đôi khi hơi uốn cong, hai đầu phẳng, đều nhau hoặc một đầu to hơn, dài 5 cm đến 18 cm, đường kính 1 cm đến 2,5 cm. Mặt ngoài hơi trắng hoặc hồng nhạt, đôi khi có màu nâu thẫm, nhẵn hoặc có nếp nhăn dọc và vết tích của rễ nhỏ. Chất rắn chắc, nặng, khó bẻ gãy. Mặt cắt phẳng màu trắng ngà hoặc hơi phớt hồng, vỏ hẹp, gỗ thành tia rõ đôi khi có khe nứt. Không mùi. Vị hơi đắng và chua.
Dược liệu thái lát: Lát mỏng gần tròn, bên ngoài nhẵn mịn, màu trắng hoặc hơi phớt hồng. Vị hơi đắng và chua.
Phân bố, thu hái, chế biến
Phân bố
Thế giới: Bạch thược vốn là cây mọc tự nhiên ở một số tình Hắc Long Giang, Cát Lâm, Hà Bắc, Liêu Ninh, Sơn Đông... (Trung Quốc). Do giá trị và nhu cầu làm thuốc tăng, nên bạch thược cũng như một số loài khác cùng chi đã được đưa vào trồng từ lâu đời ở nhiều địa phương của Trung Quốc.
Việt Nam: Bạch thược thuộc loại cây bụi ưa ẩm và ưa sáng. Cây trồng ở Sa Pa đã tỏ ra thích nghi với điều kiện khí hậu của vùng á nhiệt đới núi cao, nhiệt độ trung bình khoảng 15,3°C, lượng mưa 2800 mm/năm. Cây trồng từ hạt sau 4 hoặc 5 năm mới bắt đầu có hoa. Bạch thược rụng lá vào mùa đông, trên thân và cành có nhiều chồi ngủ. Đến khoảng giữa tháng 2 năm sau (sau tết âm lịch), từ các chồi ngủ nhanh chóng mọc ra cành và lá non mới. Mùa hoa bắt đầu vào giữa tháng 5, kéo dài từ 10 đến 15 ngày, song mỗi hoa chỉ nở trong vòng vài giờ, đến trưa đã bắt đầu tàn. Hạt giống thu được ở những cây trồng, đem gieo đã cho những lứa cây mới.
Bạch thược có khả năng mọc chồi từ gốc hoặc từ rễ của cây. Chồi tách từ rễ củ có thể làm cây giống để trồng.
Thu hái
Đào lấy rễ, rửa sạch đất cát, cắt bỏ đầu đuôi và rễ con, cạo sạch vỏ ngoài sau đó luộc chín hoặc luộc chín rồi bỏ vỏ, phơi khô hoặc thái lát phơi khô.
Chế biến
Lấy rễ chưa thái lát, làm ẩm, ủ mềm, thái lát phơi khô.
Bảo quản
Để nơi khô, mát, tránh mốc, mọt.
Bộ phận sử dụng
Rễ thu hái từ cây 3 – 5 tuổi vào hè – thu, rửa sạch đất cát, cắt bỏ đầu đuôi và rễ con, gọt bỏ vỏ ngoài, cho vào nước sôi, đun sơ qua, vớt ra, đảo hoặc lăn tròn, rồi phơi hay sấy khô.
Rễ hình trụ tròn, hai đầu đều nhau hoặc một đầu hơi to hơn, thẳng hoặc hơi cong queo, dài 10 – 20 cm, đường kính 1 – 2 cm. Mặt ngoài màu nâu nhạt hoặc màu phấn trắng, chỗ chưa cạo hết vỏ có màu nâu xám, đôi khi có đường nhăn dọc rõ rệt.
Mô tả Cam thảo hoạt chất của Thuốc Pharnanca
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cam thảo.
Tên khác: Lộ thảo, Cam thảo bắc.
Tên khoa học: Glycyrrhiza uralensis Fisch. Đây là một loài thực vật thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thảo sống lâu năm, cao 30 - 100 cm. Rễ dài màu vàng nhạt. Cơ thể có lông ngắn, mềm. Lá mọc so le, kép, có lông chim lẻ, gồm 9 - 17 lá chét hình bầu dục, nguyên. Cụm hoa ở nách lá, hoa nhỏ hơn, màu hoa oải hương. Vỏ quả cong hình lưỡi liềm, dài 3 - 4 cm, rộng 6 - 8 mm, màu nâu đen, có lông dày, chứa 2 - 8 hạt nhỏ dẹt, màu nâu bóng.
Loài Cam thảo nhẵn – Glycyrrhiza glabra L. cũng thường được sử dụng. Cây cao 1 - 1,5 m, cũng có rễ dài màu vàng nhạt. Lá kép lông chim lẻ có lá chét nguyên với hình trái xoan tù. Hoa nhỏ hợp thành chùm dài mọc đứng màu lơ tím sáng. Quả đậu dẹp thuôn, thẳng, hoặc hơi cong, không có lông, nhỏ hơn loài trên và chỉ chứa 2 - 4 hạt tròn.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ôn đới Âu Á, phân bố chủ yếu ở Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Afghanistan, Iran... Tai đã nhập giống từ Trung Quốc và Nga về trồng thử nghiệm ở Vĩnh Phú (Tam Đảo), Hà Nội, Hải Tây nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Ở nước ta, Cam thảo có thể nở hoa sau 3 năm sinh trưởng, nhưng năng suất thấp. Đến 5 tuổi cây ra hoa nhiều và cho quả cao hơn. Thời kỳ ra hoa nói chung là tháng 6 - 7, thời kỳ đậu quả là tháng 8 - 9. Người ta thu hoạch Cam thảo vào khoảng năm thứ năm, thường vào mùa đông khi cây chết. Tại thời điểm này, bộ rễ đã chắc, nặng, nhiều bột và chất lượng tốt. Dùng bàn chải để loại bỏ đất. Phân loại thành lớn, nhỏ và khô. Khi khô 50%, bó thành từng bó, sau đó phơi khô chỉ cắt phần ngọn, không lấy rễ nên vỏ vẫn giữ được màu nâu đỏ rất đẹp. Thường dùng dưới dạng Sinh thảo, Chích thảo, bột Cam thảo:
- Sinh thảo: Rửa sạch nhanh rồi đồ mềm, cắt thành lát mỏng 2mm lúc còn nóng; nếu không kịp cắt thì cho ngay vào nước lã, ủ cho mềm để khi cắt được dễ dàng. Sau đó, mang sấy hoặc phơi khô.
- Chích thảo: Sau khi sấy khô rồi đem tẩm mật (1kg Cam thảo phiến thì dùng 200g mật, pha thêm 200ml nước đun sôi) tẩm rồi sao cho vàng thơm. Nếu dùng ít, có thể thái thành khúc 5 – 10cm, cuộn vài lần bằng giấy bản, nhúng qua nước cho đủ ướt rồi vùi vào tro nóng, khi thấy giấy khô hơi xém thì bỏ giấy, cắt lát mỏng.
Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài, cắt miếng tròn. Sau đó sấy khô, nghiền thành bột mịn vừa. Bảo quản trong thùng kín và để nơi khô ráo.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được của Cam thảo là rễ và thân rễ.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Pharnanca đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này