Thuốc Minh mạng hoàn - OPC
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 10 hoàn x 5g (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Minh mạng hoàn được sản xuất từ các hoạt chất Bột kép (tương ứng với Đương quy 500mg, Hoàng kỳ 500mg, Ba kích 500mg, Nhục thung dung 375mg, Liên nhục 375mg) 2250mg, Bột mịn nhân sâm 500mg, Cao đặc qui về khan (tương ứng với: Sinh địa 500mg, Đỗ trọng 500mg, Câu kỷ tử 500mg, Cúc hoa 500mg, Hoàng tinh 375mg, Dâm dương hoắc 375mg, Xa tiền tử 375mg, Xà sàng tử 375mg , Viễn chí 375mg, Táo nhân 375mg, cam thảo 375mg, Đại táo 375mh) 647mg với hàm lượng tương ứng
Mô tả Cam thảo hoạt chất của Thuốc Minh mạng hoàn
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cam thảo.
Tên khác: Lộ thảo, Cam thảo bắc.
Tên khoa học: Glycyrrhiza uralensis Fisch. Đây là một loài thực vật thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thảo sống lâu năm, cao 30 - 100 cm. Rễ dài màu vàng nhạt. Cơ thể có lông ngắn, mềm. Lá mọc so le, kép, có lông chim lẻ, gồm 9 - 17 lá chét hình bầu dục, nguyên. Cụm hoa ở nách lá, hoa nhỏ hơn, màu hoa oải hương. Vỏ quả cong hình lưỡi liềm, dài 3 - 4 cm, rộng 6 - 8 mm, màu nâu đen, có lông dày, chứa 2 - 8 hạt nhỏ dẹt, màu nâu bóng.
Loài Cam thảo nhẵn – Glycyrrhiza glabra L. cũng thường được sử dụng. Cây cao 1 - 1,5 m, cũng có rễ dài màu vàng nhạt. Lá kép lông chim lẻ có lá chét nguyên với hình trái xoan tù. Hoa nhỏ hợp thành chùm dài mọc đứng màu lơ tím sáng. Quả đậu dẹp thuôn, thẳng, hoặc hơi cong, không có lông, nhỏ hơn loài trên và chỉ chứa 2 - 4 hạt tròn.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ôn đới Âu Á, phân bố chủ yếu ở Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Afghanistan, Iran... Tai đã nhập giống từ Trung Quốc và Nga về trồng thử nghiệm ở Vĩnh Phú (Tam Đảo), Hà Nội, Hải Tây nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Ở nước ta, Cam thảo có thể nở hoa sau 3 năm sinh trưởng, nhưng năng suất thấp. Đến 5 tuổi cây ra hoa nhiều và cho quả cao hơn. Thời kỳ ra hoa nói chung là tháng 6 - 7, thời kỳ đậu quả là tháng 8 - 9. Người ta thu hoạch Cam thảo vào khoảng năm thứ năm, thường vào mùa đông khi cây chết. Tại thời điểm này, bộ rễ đã chắc, nặng, nhiều bột và chất lượng tốt. Dùng bàn chải để loại bỏ đất. Phân loại thành lớn, nhỏ và khô. Khi khô 50%, bó thành từng bó, sau đó phơi khô chỉ cắt phần ngọn, không lấy rễ nên vỏ vẫn giữ được màu nâu đỏ rất đẹp. Thường dùng dưới dạng Sinh thảo, Chích thảo, bột Cam thảo:
- Sinh thảo: Rửa sạch nhanh rồi đồ mềm, cắt thành lát mỏng 2mm lúc còn nóng; nếu không kịp cắt thì cho ngay vào nước lã, ủ cho mềm để khi cắt được dễ dàng. Sau đó, mang sấy hoặc phơi khô.
- Chích thảo: Sau khi sấy khô rồi đem tẩm mật (1kg Cam thảo phiến thì dùng 200g mật, pha thêm 200ml nước đun sôi) tẩm rồi sao cho vàng thơm. Nếu dùng ít, có thể thái thành khúc 5 – 10cm, cuộn vài lần bằng giấy bản, nhúng qua nước cho đủ ướt rồi vùi vào tro nóng, khi thấy giấy khô hơi xém thì bỏ giấy, cắt lát mỏng.
Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài, cắt miếng tròn. Sau đó sấy khô, nghiền thành bột mịn vừa. Bảo quản trong thùng kín và để nơi khô ráo.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được của Cam thảo là rễ và thân rễ.
Mô tả Câu kỷ tử hoạt chất của Thuốc Minh mạng hoàn
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng việt: Câu kỷ tử.
Tên khác: Câu khởi, Khởi tử, Địa cốt tử, Kỷ tử.
Tên khoa học: Lycium sinense Mill. (Lycium barbarum L. var. sinense Ait), thuộc họ cà - Solanaceae.
Câu kỷ tử (Fructus Lycii) là quả chín phơi hay sấy khô của cây kỷ tử Lycium sinense.
Đặc điểm tự nhiên
Cây kỷ tử Lycium sinense có chiều cao trung bình từ 0,5 – 1,5m cành nhỏ, có thể có gai dài khoảng 5cm mọc ở kẽ lá. Lá cây hình mác, dài khoảng 5cm, rộng 0,6 - 2,5cm, đầu lá nhọn, rìa lá nguyên, mọc so le hoặc mọc vòng. Cuống lá hẹp, ngắn 2 - 6mm.
Cây ra hoa vào khoảng tháng 6 - 9. Hoa màu tím đỏ, nhỏ, mọc đơn hoặc chùm tại kẽ lá. Mùa quả vào tháng 7 - 10. Quả hình trứng, mọng nước, chiều dài 0,5 - 2cm, đường kính 4 – 8mm. Quả khi chín có màu đỏ sẫm hoặc vàng đỏ. Hạt nhiều, hình thận, dạt, dài 2 – 2,5mm.
Phân bố, thu hái, chế biến
Câu kỷ tử mọc ở các nước như Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc. Ở Trung Quốc, cây được trồng ở nhiều ở các tỉnh giáp Việt Nam như Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam,... Ở nước ta, vị thuốc này chủ yếu được nhập từ Trung Quốc.
Cây Câu kỷ tử là một cây lâu năm, cây có thể trồng bằng hạt hoặc dâm cành. Sau 3 năm trồng, cây có thể cho trái để thu hoạch. Thời gian thu hoạch đỉnh điểm là vaò năm thứ 10 và tiếp tục kéo dài cho đến 20 - 30 năm tùy theo cách chăm sóc.
Quả được thu hái chủ yếu vào mùa hạ và mùa thu. Để giữ được chất lượng của qủa, thời điểm thu hái cần tránh nắng nóng (thích hợp là sáng sớm hoặc chiều mát), phơi trong bóng râm mát sau đó mới đem phơi nắng để thật khô. Nhiệt độ sấy chỉ từ 30 – 45°.
Câu kỷ tử có thể dùng tươi hoặc dùng khô. Quả tươi có thể đem tẩm rượu trong 24 giờ, rồi giã dập trước khi dùng. Hoặc đem quả tươi đem tẩm với mật ong sắc lấy nước đặc. Quả khô có thể tán thành bột mịn để dùng.
Để bảo quản Câu kỷ tử cần phun rượu hoặc xông diêm sinh định kỳ để tránh nấm mốc phát triển và để ở nơi thoáng mát, thông gió.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng của Câu kỷ tử là: Quả khô.
Mô tả Đại táo (Quả) hoạt chất của Thuốc Minh mạng hoàn
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Đại táo (Quả).
Tên khác: Táo tàu; táo đen; hồng táo; Nhẫm táo; Thích táo; Ngưu đầu; Phác lạc tô…
Tên khoa học: Zizyphus jujuba Mill.
Đặc điểm tự nhiên
Đại táo là một cấy nhỡ hay cây to, có thể cao 8 – 10m. Thân cành lúc non có màu lục vàng, sau đó chuyển sang màu xám rồi nâu đỏ, có gai ngắn ở mấu. Lá mọc so le; cuống lá ngắn 0,5 - 1cm, phiến lá hình trứng, đầu hẹp lại, dài 3 - 7cm, rộng 2 - 3,5cm, mép có răng cưa thô, nổi rõ 3 gân chính và các gân phụ trên mặt. Lá kèm thường thành gai.
Hoa mọc tụ tập thành tán ở kẽ lá, mỗi tán gồm 7 - 8 hoa. Hoa nhỏ, cánh hoa màu vàng xanh nhạt. Đài, tràng và nhị đều 5.
Quả hình trứng hoặc hình bầu dục, dài khoảng 2 - 3,5cm, đường kính khoảng 1,5 - 2,5cm, gốc lõm, cuống ngắn. Vỏ quả ngoài mỏng, nhăn nheo, hơi sáng bóng, màu hồng tối; vỏ quả giữa xốp, mềm, ngọt và có dầu, màu nâu nhạt hoặc vàng nâu; vỏ quả trong là một hạch hình thoi dài, cứng rắn, 2 đầu nhọn, có 2 ô chứa các hạt nhỏ hình trứng. Mùi thơm đặc biệt, vị ngọt.
Mùa hoa: Tháng 4 đến tháng 5.
Mùa quả: Tháng 7 đến tháng 9.
Phân bố, thu hái, chế biến
Đại táo vốn là cây sống ở Trung Quốc, vùng ôn đới ẩm, phân bố nhiều ở Sơn Đông, Phúc Kiến, Hà Bắc, Hà Nam, Thiềm Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên. Cây còn có ở Nhật Bản. Ở Việt Nam, Đại táo trồng ở SaPa sinh trưởng tốt, ra hoa vào tháng 5 nhưng không đậu quả. Theo các cán bộ ở đây, sở dĩ không cỏ quả, có lẽ do mùa hoa của cây thường đúng vào thời kỳ có mưa. Trong khi đó, một số cây Đại táo trồng ở vườn mỗi gia đình ở xã Cao Phong, Cao Lộc, Lạng Sơn (giống lấy từ Trung Quốc), cứ cách 1 - 2 năm lại cho ra quả 1 lần.
Quả nhỏ, khi chín ăn ngon. Cây trồng ở Việt Nam rụng lá vào mùa đông, mùa xuân có hoa sau khi đã mọc nhiều lá non. Đại táo có khả năng sinh nhiều cây chồi mọc từ rễ và loại cây chồi này được sử dụng để gây giống.
Tuy ở nước ta đã trồng được Đại táo nhưng vẫn chưa đủ số lượng và chất lượng để được sử dụng làm thuốc, loại dược liệu này vẫn phải nhập từ Trung Quốc.
Vào tháng 9, thu hoạch quả chín rồi đem phơi khô hoặc sấy khô. Thường những quả mẫm, màu đỏ, vị ngọt, hạch nhỏ được coi là tốt.
Bộ phận sử dụng
Là quả chín (Fructus Zizyphi jujubae) đã chế biến phơi hay sấy khô của Đại táo.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Minh mạng hoàn đang được ThuocViet cập nhật
Lịch sử đăng ký với cục quản lý dược của Thuốc Minh mạng hoàn:
- SĐK: VD-22953-15- Quy cách đóng gói: Hộp 10 hoàn x 5g - ngày đăng ký: 24/06/2016
- SĐK: VD-11072-10 - Quy cách đóng gói: Hộp 10 hoàn x 5g thuốc hoàn mềm - ngày đăng ký: 2013-04-22 10:23:37
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này