Thuốc Khớp lưng tọa - Dược phẩm Ninh Bình
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 15 gói x 5g hoàn cứng, Hộp 15 gói x 5g, Hộp 15 gói x 5g hoàn cứng (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Khớp lưng tọa được sản xuất từ các hoạt chất Đỗ trọng, Ngưu tất, Tục đoạn, Phá cố chỉ, Ý dĩ, Đương quy, Bạch chỉ, Hạt sen, Cẩu tích, Độc hoạt, Thục địa, Cam thảo, Thổ phục linh với hàm lượng tương ứng 0.25g, 0.475g, 0.375g, 0.375g, 0.5g, 0.5g, 0.375g, 0.5g, 0.375g, 0.375g, 0.5g, 0.25g, 0.25g
Mô tả Bạch chỉ hoạt chất của Thuốc Khớp lưng tọa
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Bạch chỉ.
Tên khác: Phong bạch chỉ, phong hương, bạch chỉ hàng châu, hương bạch chỉ.
Tên khoa học: Angelica dahurica Benth. et Hook (họ Hoa tán – Apiaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Bạch chỉ là một loài thân cỏ nhiều năm, cao từ 1 – 1,5 m. Rễ cọc mọc thẳng xuống đất và phình lên thành củ, đôi khi có phân nhánh. Thân có đường kính từ 2 – 3 cm, rỗng, bên ngoài có màu tím hồng, thân non có lông che chở. Lá có kích thước lớn, bẹ lá phát triển ôm lấy thân. Phiến lá xẻ lông chim từ 2 – 3 lần tạo các thùy hình trứng có chiều dài 2 – 6 cm, rộng 1 – 3 cm, mép lá có răng cưa, có lông ở mặt trên lá tại vị trí các đường gân.
Cụm hoa dạng tán kép mọc ở ngọn cạnh hoặc nách lá. Cuống chung dài 4 – 8 cm, cuống tán dài 1 cm. Hoa mẫu 5, màu trắng, cánh hoa cong lên ở đính phiến, 5 nhị dài hơn cánh hoa. Quả bế đôi hình bầu dục dẹt hoặc hình cầu, dài khoảng 6 mm với 4 cánh mỏng. Cây có chứa tinh dầu ở rễ, thân và lá.
Ngoài bạch chỉ (hàng châu bạch chỉ, hương bạch chỉ) còn có Xuyên bạch chỉ (Angelica anomala) cũng là một loài thân cỏ lâu năm sống lâu hơn bạch chỉ, chiều cao hơn bạch chỉ 2 – 3 cm nhưng đường kính thân lại nhỏ hơn chỉ khoảng 1 cm, lá chia thùy với phần cuống dài khác với loài bạch chỉ nói trên. Tuy nhiên, theo Trung dược chí 1 (1993), loài này chưa bao giờ được dùng thay thế bạch chỉ.
Phân bố, thu hái, chế biến
Bạch chỉ đã được di thực thành công vào nước ta và lưu giống tại vùng núi cao. Cây cũng được trồng ở đồng bằng.
Tại Tam Đảo, bạch chỉ được trồng vào khoảng tháng 1, tháng 2 hàng năm, đến tháng 4, tháng 5 năm sau, cây bắt đầu ra hoa.
Chờ đến mùa thu, khi lá chuyển vàng, tiến hành thu hái rễ (không lấy rễ củ ở cây ra hoa, kết quả).
Lấy cả rễ và rễ con cho vào dụng cụ bảo quản chứa vôi, đậy kín. Sau 1 tuần lấy mẫu đem phơi khô. Cũng có nơi người ta tiến hành phơi luôn. Phơi nắng hoặc sấy khô 40 – 50oC.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận dùng của bạch chỉ là rễ củ (Radix Angelicae dahuricae) phơi hay sấy khô. Rễ củ có dạng hình chùy đường kính khoảng 3 cm, dài từ 10 – 20 cm. Mặt ngoài có màu nâu nhạt, có dấu vết của rễ con và nhiều đường nhăn dọc. Cắt ngang thấy có màu trắng đến trắng ngà, mùi thơm hắc, vị cay, hơi đắng.
Mô tả Cam thảo hoạt chất của Thuốc Khớp lưng tọa
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cam thảo.
Tên khác: Lộ thảo, Cam thảo bắc.
Tên khoa học: Glycyrrhiza uralensis Fisch. Đây là một loài thực vật thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thảo sống lâu năm, cao 30 - 100 cm. Rễ dài màu vàng nhạt. Cơ thể có lông ngắn, mềm. Lá mọc so le, kép, có lông chim lẻ, gồm 9 - 17 lá chét hình bầu dục, nguyên. Cụm hoa ở nách lá, hoa nhỏ hơn, màu hoa oải hương. Vỏ quả cong hình lưỡi liềm, dài 3 - 4 cm, rộng 6 - 8 mm, màu nâu đen, có lông dày, chứa 2 - 8 hạt nhỏ dẹt, màu nâu bóng.
Loài Cam thảo nhẵn – Glycyrrhiza glabra L. cũng thường được sử dụng. Cây cao 1 - 1,5 m, cũng có rễ dài màu vàng nhạt. Lá kép lông chim lẻ có lá chét nguyên với hình trái xoan tù. Hoa nhỏ hợp thành chùm dài mọc đứng màu lơ tím sáng. Quả đậu dẹp thuôn, thẳng, hoặc hơi cong, không có lông, nhỏ hơn loài trên và chỉ chứa 2 - 4 hạt tròn.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ôn đới Âu Á, phân bố chủ yếu ở Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Afghanistan, Iran... Tai đã nhập giống từ Trung Quốc và Nga về trồng thử nghiệm ở Vĩnh Phú (Tam Đảo), Hà Nội, Hải Tây nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Ở nước ta, Cam thảo có thể nở hoa sau 3 năm sinh trưởng, nhưng năng suất thấp. Đến 5 tuổi cây ra hoa nhiều và cho quả cao hơn. Thời kỳ ra hoa nói chung là tháng 6 - 7, thời kỳ đậu quả là tháng 8 - 9. Người ta thu hoạch Cam thảo vào khoảng năm thứ năm, thường vào mùa đông khi cây chết. Tại thời điểm này, bộ rễ đã chắc, nặng, nhiều bột và chất lượng tốt. Dùng bàn chải để loại bỏ đất. Phân loại thành lớn, nhỏ và khô. Khi khô 50%, bó thành từng bó, sau đó phơi khô chỉ cắt phần ngọn, không lấy rễ nên vỏ vẫn giữ được màu nâu đỏ rất đẹp. Thường dùng dưới dạng Sinh thảo, Chích thảo, bột Cam thảo:
- Sinh thảo: Rửa sạch nhanh rồi đồ mềm, cắt thành lát mỏng 2mm lúc còn nóng; nếu không kịp cắt thì cho ngay vào nước lã, ủ cho mềm để khi cắt được dễ dàng. Sau đó, mang sấy hoặc phơi khô.
- Chích thảo: Sau khi sấy khô rồi đem tẩm mật (1kg Cam thảo phiến thì dùng 200g mật, pha thêm 200ml nước đun sôi) tẩm rồi sao cho vàng thơm. Nếu dùng ít, có thể thái thành khúc 5 – 10cm, cuộn vài lần bằng giấy bản, nhúng qua nước cho đủ ướt rồi vùi vào tro nóng, khi thấy giấy khô hơi xém thì bỏ giấy, cắt lát mỏng.
Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài, cắt miếng tròn. Sau đó sấy khô, nghiền thành bột mịn vừa. Bảo quản trong thùng kín và để nơi khô ráo.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được của Cam thảo là rễ và thân rễ.
Mô tả Cẩu tích hoạt chất của Thuốc Khớp lưng tọa
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cẩu tích.
Tên gọi khác: Rễ lông cu li; kim mao cẩu tích; cây lông khỉ.
Tên khoa học: Cibotium barometz (L.) J. Sm.
Họ: Dicksoniaceae.
Đặc điểm tự nhiên
Thân rễ mọc đứng, thường ngắn, to, phủ lông mềm màu vàng nâu. Khi cắt hết lá còn lại những gốc cuống thì thân rễ lúc này giống con cu li. Đoạn thân rễ đã loại bỏ lớp lông màu vàng nâu bên ngoài, mặt ngoài rất gồ ghề, khúc khuỷu, có những chỗ lồi lên thành mấu, màu nâu hoặc nâu hơi hồng, đường kính 2 - 5 cm, dài 4 - 10 cm, rất cứng, khó cắt, khó bẻ gẫy; đôi khi còn sót lại ít lông màu vàng nâu. Dược liệu khi dùng thường đã thái thành phiến mỏng hình dạng thay đổi, mặt cắt ngang nhẵn, màu nâu hồng hay nâu nhạt, có vân.
Thân cây thường yếu, nhưng cũng có thể cao 2,5 - 3 m. Lá kép dài 1 - 2 m, chia nhiều lá chét xếp dạng lông chim, các lá chét này chia thành nhiều lá chét bậc hai xếp sít nhau, lá chét bậc hai có gốc bằng nhau, đầu thon mảnh, lại chia thành nhiều đoạn thuôn hẹp, mặt trên màu lục thẫm, mặt dưới nhạt hơn; cuống lá kép rất to và cứng, màu nâu, cũng có lông mềm.
Cơ quan sinh sản là những túi bao tử có áo màu nâu, mọc ở mặt dưới lá, xếp đều đặn ở hai bên gân giữa, trong đựng nhiều bào tử, bao tử hình tam giác hay hơi tròn, sần sùi, màu sang hay đen nhạt, có cánh.
Mùa sinh sản: Tháng 10 - 1.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cẩu tích mọc hoang khấp nơi ở miền rừng núi Việt Nam, Lào, Cămpuchia, Philipin, Malaixia và Inđônêxia. Miền nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Vân Nam) cũng có.
Thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào cuối thu sang đông. Khi hái về thì rửa sạch cắt bỏ rễ con, cuống lá và lông vàng phủ xung quanh thân rễ, thái mỏng, phơi khô. Có khi đồ hơi nước rồi mới phơi, làm như vậy nhiều lần; có khi lại còn đổ với đậu đen chín lần đồ, chín lần phơi rồi cuối cùng thái mỏng phơi khô.
Bộ phận sử dụng
Thân rễ.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Khớp lưng tọa đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này