Thuốc Dạ dày số 1 - Nam Dược
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: chai 100 viên, , (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Dạ dày số 1 được sản xuất từ các hoạt chất Dược liệu với hàm lượng tương ứng
Mô tả Cam thảo hoạt chất của Thuốc Dạ dày số 1
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Cam thảo.
Tên khác: Lộ thảo, Cam thảo bắc.
Tên khoa học: Glycyrrhiza uralensis Fisch. Đây là một loài thực vật thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thảo sống lâu năm, cao 30 - 100 cm. Rễ dài màu vàng nhạt. Cơ thể có lông ngắn, mềm. Lá mọc so le, kép, có lông chim lẻ, gồm 9 - 17 lá chét hình bầu dục, nguyên. Cụm hoa ở nách lá, hoa nhỏ hơn, màu hoa oải hương. Vỏ quả cong hình lưỡi liềm, dài 3 - 4 cm, rộng 6 - 8 mm, màu nâu đen, có lông dày, chứa 2 - 8 hạt nhỏ dẹt, màu nâu bóng.
Loài Cam thảo nhẵn – Glycyrrhiza glabra L. cũng thường được sử dụng. Cây cao 1 - 1,5 m, cũng có rễ dài màu vàng nhạt. Lá kép lông chim lẻ có lá chét nguyên với hình trái xoan tù. Hoa nhỏ hợp thành chùm dài mọc đứng màu lơ tím sáng. Quả đậu dẹp thuôn, thẳng, hoặc hơi cong, không có lông, nhỏ hơn loài trên và chỉ chứa 2 - 4 hạt tròn.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ôn đới Âu Á, phân bố chủ yếu ở Nga, Trung Quốc, Mông Cổ, Afghanistan, Iran... Tai đã nhập giống từ Trung Quốc và Nga về trồng thử nghiệm ở Vĩnh Phú (Tam Đảo), Hà Nội, Hải Tây nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Ở nước ta, Cam thảo có thể nở hoa sau 3 năm sinh trưởng, nhưng năng suất thấp. Đến 5 tuổi cây ra hoa nhiều và cho quả cao hơn. Thời kỳ ra hoa nói chung là tháng 6 - 7, thời kỳ đậu quả là tháng 8 - 9. Người ta thu hoạch Cam thảo vào khoảng năm thứ năm, thường vào mùa đông khi cây chết. Tại thời điểm này, bộ rễ đã chắc, nặng, nhiều bột và chất lượng tốt. Dùng bàn chải để loại bỏ đất. Phân loại thành lớn, nhỏ và khô. Khi khô 50%, bó thành từng bó, sau đó phơi khô chỉ cắt phần ngọn, không lấy rễ nên vỏ vẫn giữ được màu nâu đỏ rất đẹp. Thường dùng dưới dạng Sinh thảo, Chích thảo, bột Cam thảo:
- Sinh thảo: Rửa sạch nhanh rồi đồ mềm, cắt thành lát mỏng 2mm lúc còn nóng; nếu không kịp cắt thì cho ngay vào nước lã, ủ cho mềm để khi cắt được dễ dàng. Sau đó, mang sấy hoặc phơi khô.
- Chích thảo: Sau khi sấy khô rồi đem tẩm mật (1kg Cam thảo phiến thì dùng 200g mật, pha thêm 200ml nước đun sôi) tẩm rồi sao cho vàng thơm. Nếu dùng ít, có thể thái thành khúc 5 – 10cm, cuộn vài lần bằng giấy bản, nhúng qua nước cho đủ ướt rồi vùi vào tro nóng, khi thấy giấy khô hơi xém thì bỏ giấy, cắt lát mỏng.
Bột Cam thảo: Cạo sạch vỏ ngoài, cắt miếng tròn. Sau đó sấy khô, nghiền thành bột mịn vừa. Bảo quản trong thùng kín và để nơi khô ráo.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được của Cam thảo là rễ và thân rễ.
Mô tả Đậu xanh (Hạt) hoạt chất của Thuốc Dạ dày số 1
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Đậu xanh.
Tên khác: Đỗ xanh.
Tên khoa học: Vigna radiata (L.) Wilczek var. radiata, thuộc họ Đậu – Fabaceae.
Tên đồng nghĩa: Phaseolus aureus Roxb. Hoặc Vigna aurea Roxb. Họ: Fabaceae (Đậu).
Đặc điểm tự nhiên
Cây thảo sống hàng năm, mọc đứng, ít phân nhánh, cao 50 - 60 cm. Thân cành hơi có cạnh và rãnh, phủ đầy lông mềm.
Lá kép mọc so le, có 3 lá chét, lá chét hình trái xoan – tam giác, màu trên màu lục sẫm, mặt dưới nhạt, có lông ráp, chiều dài từ 5 đến 11 cm, chiều rộng từ 4 đến 9 cm. Lá đậu xanh có 3 gân và tỏa từ gốc, cuống lá dài 10 – 15 cm.
Cụm hoa mọc ở kẻ lá thành chùm. Hoa vàng hoặc màu lục, rất dày đặc, xếp thành chùm ở nách, dài hình chuông, nhẵn; tràng có cánh cờ rộng, cánh thìa hình liềm, cánh bên có tai nhọn; nhị 2 bó; bầu có lông.
Quả nằm ngang, hình trụ, có lông rồi nhẵn, có đầu nhọn ngắn, chiều dài từ 5 đến 10 cm. Trong quả có khoảng 10 đến 15 hạt, phân cách nhau bởi các vách màu lục, bóng.
Cây được trồng quanh năm, ưa đất tơi xốp, cát pha hoặc thịt nhẹ, không chịu được nóng.
Mùa hoa từ tháng 3 – 5; mùa quả từ tháng 6 – 8.
Phân bố, thu hái, chế biến
Đậu xanh có nguồn gốc ở Ấn Độ, Mianma, sau đó được trồng rộng rãi ở các nước vùng Nam Á và Đông Nam Á khác. Đậu xanh là sản phẩm riêng của vùng nhiệt đới châu Á, ngoài ra cây cũng được trồng ở các nước nhiệt đới châu Phi và châu Mỹ. Năm 1964, sản lượng đậu xanh trên thế giới khoảng 9 triệu tấn (theo thống kê của tổ chức lương nông thế giới FAO).
Ở Việt Nam, Đậu xanh là cây trồng từ xa xưa, chủ yếu làm thực phẩm, ở khắp các tỉnh, từ vùng đồng bằng đến miền núi có độ cao dưới 1.000 m. Vài năm trở lại đây, do hình thức kinh tế trang trại phát triển, đậu xanh được trồng với diện tích lớn ở Tây Nguyên, Đông Tây Nguyên, các tỉnh miền Đông và ven biển miền Trung. Trong nhân dân Việt Nam, ngoài công dụng thực phẩm, Đậu xanh toàn hạt và vỏ hạt được dùng làm thuốc.
Bộ phận sử dụng
Hạt – Semen Vignae Radiatae, thường gọi là Lục đậu.
Mô tả Mật ong hoạt chất của Thuốc Dạ dày số 1
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Mật ong.
Tên gọi khác: Bách hoa tinh, bách hoa cao, phong đường, phong mật.
Tên khoa học: Apis mellifera L.
Đặc điểm tự nhiên
Độ nhớt
Mật ong tươi được chiết xuất là một chất lỏng sền sệt. Độ nhớt của nó phụ thuộc vào nhiều loại chất và do đó thay đổi theo thành phần của nó. Trong đó hàm lượng nước quyết định chính tới độ nhớt của mật ong.
Tính hút ẩm
Tính hút ẩm là một đặc tính khác của mật ong và mô tả khả năng hấp thụ độ ẩm từ không khí. Mật ong bình thường có hàm lượng nước từ 18,8% trở xuống sẽ hút ẩm từ không khí có độ ẩm trên 60%.
Sức căng bề mặt
Sức căng bề mặt của mật ong thay đổi theo nguồn gốc của mật ong và có thể là do các chất tạo keo. Cùng với độ nhớt cao, nó là nguyên nhân tạo ra đặc tính tạo bọt của mật ong.
Màu sắc
Màu sắc trong mật ong lỏng thay đổi từ trong và không màu (như nước) đến màu hổ phách sẫm hoặc đen. Các màu của mật ong về cơ bản là tất cả các sắc thái của màu vàng và hổ phách. Màu sắc thay đổi theo nguồn gốc thực vật, và điều kiện bảo quản. Những màu ít phổ biến hơn là màu vàng tươi (hướng dương), hơi đỏ (hạt dẻ), hơi xám (bạch đàn) và hơi xanh lá cây.
Sự kết tinh
Sau khi kết tinh, mật ong chuyển sang màu nhạt hơn do các tinh thể glucose có màu trắng. Sự kết tinh của mật ong là kết quả của sự hình thành các tinh thể glucose monohydrat, các tinh thể này khác nhau về số lượng, hình dạng, kích thước và chất lượng tùy theo thành phần mật ong và điều kiện bảo quản. Nước càng thấp và hàm lượng đường trong mật ong càng cao thì sự kết tinh càng nhanh.
Có nhiều loại mật ong có sẵn, khác nhau dựa trên nguồn thực vật, phương pháp khai thác và là mật ong thô hay đã được tiệt trùng. Các loại phổ biến bao gồm:
- Mật ong rừng.
- Mật ong hoa cà phê, cao su, ca cao.
- Mật ong hoa tràm.
- Mật ong từ hoa cam, quýt.
- Mật ong hoa bạc hà, hoa anh túc, bạch đàn.
- Mật ong bơ, kiều mạch, việt quất.
Phân bố, thu hoạch, chế biến
Mật ong được con ong tạo ra từ mật hoa của các loài thực vật có hoa. Những con ong thu thập mật hoa và sau đó tiêu thụ, tiêu hóa và trào ngược lại bên trong tổ ong để tạo ra mật ong. Mật ong được lưu trữ trong các cấu trúc giống như sáp được gọi là tổ ong, được con người thu thập thông qua thực hành nuôi ong.
Mật ong được tạo ra quanh năm nhưng thường được thu hoạch là mùa xuân – hạ. Có thể biết được thời điểm thích hợp để thu hoạch mật ong là xem bụng ong để tính thời điểm lấy mật phù hợp.
Quy trình lấy mật ong:
- Dùng khói rễ gừa để xua ong ra khỏi tổ.
- Thợ lấy mật sẽ cắt lấy tầng sáp ong có chứa mật, rồi đem vắt sáp ong và lấy mật.
- Mật sau khi được thu hoạch thủ công thường có màu vàng, hơi đục vì có lẫn một số tạp chất.
- Ở các cơ sở nuôi ong công nghiệp thường dùng máy ly tâm để tách bỏ tạp chất.
- Mật ong sau khi thu hoạch sẽ được đem đóng chai và bảo quản nơi thoáng mát.
Bộ phận sử dụng
Sữa ong chúa, mật, sáp ong đều có thể dùng để làm dược liệu thiên nhiên.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Dạ dày số 1 đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này