Thuốc Chophytin - Phong Phú
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 10 vỉ x 10 viên; Hộp 1 chai 180 viên; Hộp 24 chai x 40 viên, Hộp 10 vỉ x 10 viên; Hộp 1 chai 180 viên; Hộp 24 chai x 40 viên (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Chophytin được sản xuất từ các hoạt chất Cao khô dược liệu (tương đương dược liệu: Mã đề 120 mg, Lá Actiso 120 mg, Chi tử 120 mg) 54 mg với hàm lượng tương ứng 54 mg
Mô tả Chi tử hoạt chất của Thuốc Chophytin
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Chi tử.
Tên khác: Dành dành; Sơn chi; Sơn chi tử.
Tên khoa học: Gardenia jasminoides Ellis, thuộc họ Rubiaceae (Cà phê).
Đặc điểm tự nhiên
Dành dành là một loại cây nhỏ, cao chừng 1 – 2m thường xanh tốt quanh năm, thân thẳng nhẵn. Lá mọc đối, có lá kèm to, mặt trên màu sẫm bóng. Hoa mọc đơn độc, cánh hoa màu trắng, không cuống, có mùi thơm. Nở vào mùa hè. Quả hình chén với 6 - 9 góc, có 2 - 5 ngăn, khi chín có màu vàng đỏ, chứa rất nhiều hạt, mùi thơm vị đắng.
Phân bố, thu hái, chế biến
Dành dành mọc hoang và được trồng tại nhiều vùng ở miền Bắc nước ta. Tại miền núi, Dành dành thường thấy mọc hoang ở ven suối. Tại đồng bằng, nhân dân thường trồng làm cảnh và lấy quả làm thuốc hay để nhuộm bánh trái thành màu vàng (bánh xu xê, thạch). Dành dành còn thấy mọc ở Triều Tiên, Trung Quốc, Nhật Bản.
Thu hoạch vào tháng 9 đến 11, hái lấy quả chín chuyển màu vàng đỏ, ngắt bỏ cuống quả và loại tạp, đồ hoặc luộc đến khi hạt hơi phồng lên, lấy ra bỏ vỏ lấy hạt đem phơi hoặc sấy khô.
Khi dùng có thể dùng sống (không chế biến gì thêm cả), có thể sao cho hơi sẫm màu hoặc có thể sao cháy đen nhưng chưa thành tro (tồn tính). Trong đông y cho rằng để sống có tác dụng thanh nhiệt (chữa sốt), sao vàng để tả hỏa (nóng trong người), sao đen để cầm máu.
Chi tử sao vàng: Lấy dược liệu khô, sao lửa nhỏ đến màu nâu vàng, lấy ra để nguội.
Chi từ sao xém (Tiêu chi tử): Lấy dược liệu khô, dùng lửa vừa sao đến khi mặt ngoài dược liệu vàng xém, mặt bẻ màu thẫm là được, lấy ra để nguội. Khi sao xém dược liệu dễ cháy, có thể phun một ít nước, lấy ra phơi hoặc sấy khô.
Bộ phận sử dụng
Quả chín được thu hái vào tháng 8 - 10 ngắt bỏ cuống phơi hay sấy nhẹ đến khô. Theo dược điển đông y Trung Quốc 1963, quả phải nhúng nước sôi hoặc đem đồ nửa giờ, rồi mới lấy ra phơi khô. Nếu bóc vỏ trước khi phơi sấy, ta được Chi tử nhân. Quả hình trứng hay hình thoi, dài 2 - 4cm, đường kính 1 - 2cm. Mặt ngoài màu cam đến nâu đỏ, có khi xám nâu đến đỏ xám hơi bóng, có 5 - 8 đường gờ chạy dọc theo quả. Vỏ quả mỏng, nhiều hạt xếp xít nhau thành một khối hình cầu hay quả trứng. Hạt mỏng hình cầu dẹt mặt ngoài hình màu cam đến vàng nâu. Tùy theo cách sử dụng, có thể phơi khô dùng sống để thanh nhiệt, sao qua dùng chín để tá hỏa hoặc sao đen để cầm máu.
Lá thu hái quanh năm dùng tươi.
Mô tả Mã đề (Lá) hoạt chất của Thuốc Chophytin
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Mã đề (Lá).
Tên khác: Cây bông mã đề; xạ tiền thảo; rau mã đề; bông lá đề.
Tên khoa học: Plantago major L là một loại thực vật có hoa thuộc họ Plantaginaceae (họ Mã đề).
Đặc điểm tự nhiên
Mã đề là loại cây thân thảo, sống hằng năm. Thân cây ngắn, hầu như không có. Lá hình trứng, đầu tù có mũi nhọn, rộng khoảng 3,5 - 8 cm, dài 5 - 12cm, mọc thành hình hoa thị. Mép lá nguyên hoặc có răng cưa nhỏ, không đều; gân lá hình cung. Cuống lá mọc loe ở gốc, dài khoảng 5 - 10 cm.
Cụm hoa có cán dài hơn lá, mọc ở kẽ lá. Hoa Mã đề nhỏ, có lá bắc hình trứng và ngắn hơn đài. Đài dính nhau ở gốc, gồm 4 thuỳ hơi có gờ. Tràng hoa xếp xen kẽ với các lá đài, mỏng và khô xác, có 4 thuỳ hình tam giác nhọn. Nhị 4, chỉ nhị mảnh; bầu 2 ô hình cầu.
Quả nang dài 3,5 - 4 mm, hình chóp thuôn, mở bằng một nắp nứt ngang trên các lá đài. Hạt Mã đề màu nâu hoặc đen bóng, hơi dẹt.
Mùa hoa quả vào tháng 5 - 8.
Phân bố, thu hái, chế biến
Thế giới: Mã đề phân bố ở tất cả các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của các châu lục. Những nơi Mã đề mọc hoang hoặc được trồng trọt nhiều bao gồm: Thái Lan, Malaysia, Philippin, Lào, Campuchia, Indonesia, Ấn Độ, một số tỉnh phía nam Trung Quốc...
Việt Nam: Mã đề mọc hoang ở vùng núi, phân bố ở độ cao lên đến hơn 1600 m như ở Mèo Vạc và Đồng Văn (Hà Giang). Ngoài ra, cây còn mọc ở một số đảo lớn như Cát Bà (Hải Phòng), Cô Tô (Quảng Ninh), Hòn Mê (Thanh Hóa)...
Thu hái: Thu hoạch lá sau 7 - 8 tháng kể từ khi trồng (lúc cây sắp hoặc đang ra hoa).
Chế biến: Rửa sạch đất cát, phơi khô hoặc sấy khô.
Bảo quản: Để nơi khô, mát, tránh mốc, mọt.
Bộ phận sử dụng
Phần thân trên mặt đất (đa số là lá), được lại là xa tiền thảo.
Mô tả Ô dược (Rễ) hoạt chất của Thuốc Chophytin
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Ô dược, Bàng kỳ; Thai ô dược; Thổ mộc hương; Kê cốt hương; Bàng tỵ; Thiên thai ô dược; Ô dược nam; Cây dầu đắng.
Tên khoa học: Lindera myrrha Merr thuộc Họ Long não – Lauraceae.
Tên đồng nghĩa: Laurus myrrha Lour., Litsea trinervia Pers., Tetrahthera trinervia Sprens., Daphnidium myrrha Nees.
Đặc điểm tự nhiên
Ô dược là một cây bụi nhỏ, cao từ 1,3 đến 1,4m. Cây có nhiều nhánh non dầy, lông hoe. Cành già gầy, không lông, màu đen nhạt. Rễ cây Ô dược mập, rắn chắc. Vỏ ngoài của rễ có màu nâu vàng hoặc màu nâu vàng nhạt, bên trong có màu trắng ngà, có vết của rễ tơ đã rụng, có vằn nứt ngang và nếp nhăn dọc.
Lá cây mọc so le, phần đầu chóp nhọn dài, hình xoan hoặc hình bầu dục, chiều dài từ 6 đến 7cm, chiều rộng từ 2 đến 2,5cm. Mặt trên lá nhẵn bóng, mặt dưới thì ngược lại, tuy nhiên lúc về già thì không có lông và cứng lại. Mặt dưới lá hơi mốc, hai gân phụ bắt đầu từ điểm cách cuống lá 2mm, dài ra chừng 2/3 lá đến chóp phiến, mặt trên lõm, mặt dưới lồi lên. Cuống lá dài từ 7 đến 15mm, gầy, lúc đầu có lông, sau nhẵn, mặt trên hõm thành rãnh.
Hoa có màu hồng nhạt, tán đơn ở nách lá, hợp thành tán nhỏ, đường kính từ 3 đến 4mm, bầu có lông. Quả mọng hình trứng khi chín có màu đỏ, chứa 1 hạt.
Toàn cây có mùi thơm, vị đắng. Mùa ra hoa từ tháng 2 đến tháng 3.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây Ô dược mọc rải rác trong rừng thứ sinh, rừng phục hồi sau khai thác hay ở độ cao dưới 500m. Ở nước ta, cây thường mọc hoang ở các tỉnh miền Bắc và được trồng, phân bố nhiều ở các tỉnh như Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế, Thanh Hóa (miền Trung); Hòa Bình, Hà Tây (miền Bắc); Lâm Đồng, Cần Thơ (miền Nam).
Cách chế biến rễ Ô dược:
-
Theo trung y: Thu hái các rễ có từng đốt nối liền nhau (rễ đuôi chuột không dùng), bỏ vỏ lấy lõi, sao qua hay mài thành bột.
-
Theo nhân dân Việt Nam: Rễ sau khi thu hái, đem rửa sạch, ủ mềm, để ráo, xóc với giấm, thái lát mỏng rồi đem phơi khô. Có thể đem mài lấy 2 – 4g pha với nước thuốc thang đã sắc để uống.
Ô dược dễ mốc mọt, nên cần bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận dùng là rễ và quả. Cây Ô dược có thể thu hái quanh năm, nhưng thời gian tốt nhất vào giai đoạn thu đông hay đầu xuân.
Sau khi thu hoạch, rễ cây Ô dược được cắt bỏ rễ con, rửa sạch, ủ mềm, phơi khô, để ráo, thái lát phơi khô hay tán thành bột mịn.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Chophytin đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này