Thuốc Bổ thận dương TW3
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 10 túi 5g, Hộp 01 túi 50g (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Bổ thận dương TW3 được sản xuất từ các hoạt chất Thục địa 0,770g, Hoài sơn 0,385g, Khiếm thực 0,385g, Táo chua 0,385g, Thạch hộc 0,285g, Tỳ giải 0,195g, Phụ tử chế 0,095g, Quế 0,095g với hàm lượng tương ứng 0,770g, 0,385g, 0,385g, 0,385g, 0,285g, 0,195g, 0,095g, 0,095g
Mô tả Hoài Sơn hoạt chất của Thuốc Bổ thận dương TW3
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Hoài sơn.
Tên khác: Sơn dược; Khoai mài; Củ mài; Chính hoài.
Tên khoa học: Dioscorea persimilis, họ Dioscoreaceae (Củ Nâu).
Đặc điểm tự nhiên
Củ mài là cây dạng dây leo, thân củ; mỗi củ của củ mài có thể dài lên đến 1m, đường kính củ 2 - 10cm, xung quanh củ với rất nhiều rễ con. Thân leo góc cạnh nhẵn không có lông, những nách là có củ còn được gọi là “thiên hoài” hay “dái củ mài”. Lá củ mài dạng lá đơn, mọc so le hoặc mọc đối, lá hình trái tim đầu lá nhọn. Phiến lá dài từ 8 - 10cm, rộng khoảng 6 -8cm, cuống lá dài khoảng 1,5 - 3,5cm. Hoa củ mài đực cái mọc khác gốc, quả khô có ba cạnh. Hoa củ mài xuất hiện vào khoảng tháng 7 - 8, quả xuất hiện vào khoảng tháng 9 - 11.
Phân bố, thu hái, chế biến
Củ mài được tìm thấy khắp những vùng núi nước ta, cây mọc hoang; vào những thời kỳ trước khi còn khó khăn người dân vẫn đi đào củ mài để sử dụng làm lương thực ăn chóng đói. Củ mài được tìm thấy nhiều nhất tại các tỉnh miền Bắc nước ta như: Hà Bắc, Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Đến ngày nay, củ mài đã được trồng để chế hoài sơn - dược liệu trong các bài thuốc. Mùa thu hoạch củ mài chất lượng tốt nhất vào mùa thu đông và đầu xuân (khoảng từ tháng 10 - 11 đến tháng 3 - 4). Sau khi thu hoạch củ mài, muốn có vị thuốc hoài sơn phải chế biến theo các bước như sau:
Củ mài sau khi thu hoạch về, sơ chế rửa sạch đất, gọt sạch vỏ rồi cho vào lò sấy diêm sinh trong hai ngày hai đêm, sau khi sấy lấy ra phơi khô thu được hoài sơn. Nhưng nếu muốn xuất khẩu thì hình dáng phải đẹp hơn nên công đoạn chế biến phức tạp hơn.
Củ mài sau khi thu hoạch về trong vòng 3 ngày phải chế biến ngay vì để lâu sẽ bị hư. Chế biến củ mài trải qua 3 giai đoạn:
Sấy diêm sinh lần thứ nhất:
Củ mài thu hoạch về sơ chế, gọt vỏ sau đó đem đi diêm sing (110kg củ mài tương đương dùng 2kg diêm sinh). Sắp xếp củ mài trong lò sấy thành hình cũi lợn để tất cả các củ đều được tiếp xúc với hơi diêm sinh. Ủ một đêm sau khi sấy diêm sinh 2 ngày 2 đêm, sau đó phơi với nắng nhỏ hoặc sấy nhẹ cho khô. Tiếp tục đem ngâm nước 2 ngày 2 đêm rửa sạch, đem phơi nắng cho khô.
Sấy diêm sinh lần thứ hai:
Tiếp tục sấy diêm sinh lần thức 2, sắp xếp hoài sơn vào lò tương tự như sấy diêm sinh lần 1, tiếp tục sấy diêm sinh 1 ngày 1 đêm (100kg củ mài dùng 1kg diêm sinh), cho đến khi củ mài mềm như chuối, nếu thấy chưa mềm thì tiếp tục sấy diêm sinh lại. Sau khi sấy xong, tiếp tục ủ trong 1 đêm, sau đó đem sửa chữa lại cho đều đặn bằng cách đặt lên ván lăn, lăn đến khi hai đầu củ mài lõm vào. Sau khi sửa xong, tiếp tục đem phơi nắng nhỏ hoặc sấy nhẹ cho khô; sửa lại lần nữa cho thật đẹp rồi lăn cho nhẵn bóng. Cuối cùng phơi lại cho thật khô. Đánh cho bóng bằng giấy ráp bằng cánh nhúng nhanh vào nước rồi đánh bóng.
Sấy diêm sinh lần thứ ba:
Sấy diêm sinh lần thứ ba, cứ 100kg củ mài dùng 200g diêm sinh, trước khi tiến hành sấy diêm sinh cần phân loại củ mài thành nhiều hạng khác nhau. Thời gian sấy diêm sinh lần thứ 3 là 1 ngày 1 đêm.
Đối với hoài sơn hạng nhất: 0,5kg hoài sơn tương đương 4 khúc.
Đối với hoài sơn hạng hai: 0,5kg hoài sơn tương đương 6 khúc.
Đối với hoài sơn hạng ba: 0,5kg hoài sơn tương đương 8 khúc.
Đối với hoài sơn hạng bốn: 0,5kg hoài sơn tương đương 10 khúc.
Đối với hoài sơn hạng năm: 0,5kg hoài sơn tương đương 12 khúc.
Đối với hoài sơn hạng sáu: 0,5kg hoài sơn tương đương 14 khúc.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng được là rễ củ.
Mô tả Khiếm thực (Hạt) hoạt chất của Thuốc Bổ thận dương TW3
Tên gọi, danh pháp
Khiếm thực (Euryale ferox Salisb) là một loài thực vật có hoa thuộc họ Nymphaeaceae họ Súng.
Đặc điểm tự nhiên
Khiếm thực là một loài cây thuỷ sinh mọc ở đầm ao, sống hàng năm. Lá Khiếm thực nổi trên mặt nước, hình tròn rộng, mặt dưới màu tím và mặt trên màu xanh. Vào mùa hạ, cành mang hoa mọc vươn lên trên mặt nước, đầu cành có một hoa sáng nở chiều tàn.
Hạt Khiếm thực khá cứng, hình cầu, đường kính khoảng 5 - 8mm, phần lớn đều là hạt vỡ. Vỏ hạt màu đỏ nâu; một đầu hạt màu trắng vàng, chiếm khoảng 1/3 hạt. Trên hạt có vết lõm gọi là rốn hạt dạng điểm. Khi lột bỏ vỏ lụa, lộ ra lớp bên trong có màu trắng. Hạt chứa nhiều tinh bột, vị nhạt, không mùi.
Phân bố, thu hái, chế biến
Phân bố:
Hiện chưa thấy trồng ở Việt Nam. Khiếm thực thường được trồng trong các ao đầm ở nhiều tỉnh của Trung Quốc, đặc biệt là các tỉnh giáp giới Việt Nam như Vân Nam, Quảng Đông và Quảng Tây.
Thu hoạch:
Thu hoạch vào cuối thu đầu đông.
Chế biến:
Thu hái quả chín, bỏ vỏ quả, lấy hạch cứng rồi rửa sạch. Sau đó tiếp tục loại bỏ vỏ cứng, lấy hạt và phơi khô. Có thể dùng hạt Khiếm thực khô sống hoặc đã sao.
Khiếm thực sao: Rang nóng cám đến lúc có khói bay lên, cho Khiếm thực đã làm sạch vào và sao cho tới khi hạt chuyển màu hơi vàng (10kg Khiếm thực cần 1kg cám). Sàng bỏ lớp cám dính trên hạt đã sao, để nguội.
Bảo quản:
Để nơi thoáng khô, tránh mọt.
Bộ phận sử dụng
Hạt lấy từ quả Khiếm thực chín đã sấy hoặc phơi khô.
Mô tả Phụ tử hoạt chất của Thuốc Bổ thận dương TW3
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Phụ tử.
Tên khác: Xuyên ô, Thảo ô, Hắc phụ, Cách tử, Thục phụ tử.
Tên khoa học: Radix Aconiti lateralis praeparata, Aconitum fortunei Hemsl. Ranunculaceae (họ Mao lương).
Đặc điểm tự nhiên
Ô đầu là loài cây thảo cao khoảng 1 m. Thân thẳng đứng, tiết diện thân hình trụ, cây ít phân nhánh. Lá ô đầu mọc so le, có gân hình chân vịt. Mép lá răng cưa to, lá già xẻ từ 3 đến 5 thùy không đều nhau. Mặt trên và mặt dưới đều có lông, mặt trên có màu xanh lục sẫm hơn mặt dưới. Hoa mọc thành chùm ở ngọn thân. Hoa to và có màu xanh lam, mọc sát nhau. Quả có hạt nhiều, trên mặt có nhiều vảy nhỏ. Mùa hoa quả vào tháng 10 đến tháng 11.
Phụ tử là củ từ rễ nhánh của cây ô đầu.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ô đầu phân bố chủ yếu ở Bắc bán cầu, Ấn Độ, Trung Quốc. Tại Việt Nam, cây ô đầu là cây trồng có nguồn gốc từ Trung Quốc nhập về và trồng ở Sa Pa (được ngành y tế nhập giống chính thức), hoặc do cộng đồng người Hoa sống ở huyện Quản Bạ và Đồng Văn (Hà Giang) tự đem từ bên kia biên giới về trồng.
Ngoài ra, cũng có tài liệu cho rằng ô đầu mọc hoang ở Lào Cai, Hà Giang, Nghĩa Lộ (theo Võ Văn Chi, 1977). Thực tế, người ta phát hiện ô đầu mọc hoang nhiều tại thung lũng Tà Cố Y (Mù Cang Chải).
Ô đầu thích nghi ở vùng ôn đới ẩm, khí hậu mát mẻ của vùng nhiệt đới núi cao và ưa sáng, có thể chịu bóng. Cây có thể trồng và nhân giống từ hạt hoặc từ phụ tử.
Ô đầu rất độc, phải chế trước khi dùng.
Diêm phụ
Diêm là muối, phụ là phụ tử, tức là phụ tử chế muối. Phụ tử lựa chọn rễ nhánh to, bỏ rễ con, rửa sạch và cho vào vại, thêm magnesi clorua, muối ăn, nước theo tỷ lệ 100 kg phụ tử, 40 kg magesi clorua, 30 kg muối, 60 lít nước. Ngâm khoảng 10 ngày, trong thời gian đó cứ vớt ra phơi khô vào ban ngày và đêm ngâm nước.
Thỉnh thoảng thêm magnesi clorua, muối ăn, nước để đảm bảo nồng độ ban đầu. Sau cùng, vớt ra và phơi nắng đến khi có muối trắng kết tinh bên ngoài củ, lúc này muối đã thấm vào giữa củ. Trước khi dùng, cắt mỏng phụ tử, rửa đến khi hết vị cay tê, phơi hoặc sấy khô để dùng dần.
Hắc phụ
Phụ tử lựa chọn rễ nhánh to trung bình, bỏ rễ con, rửa sạch và cho vào vại, thêm magnesi clorua, nước theo tỷ lệ 100 kg phụ tử, 40 kg magesi clorua, 20 lít nước. Sau khi đun sôi 2 - 3 phút, lấy ra rửa sạch, thái mỏng rồi ngâm vào magesi clorua và nước. Tiếp theo thêm đường đỏ và dầu hạt cải, sao tẩm đến khi có màu nước chè đặc. Trước khi dùng, rửa đến khi hết vị cay tê, phơi hoặc sấy khô để dùng dần.
Bạch phụ
Phụ tử lựa chọn rễ nhánh nhỏ, rửa sạch và cho vào vại, thêm magnesi clorua, nước ngâm vài ngày. Sau đó, đun tới chín giữa củ, bóc vỏ và thái mỏng. Trước khi dùng, rửa đến khi hết vị cay tê, phơi hoặc sấy khô để dùng dần.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận dùng của phụ tử là rễ nhánh của cây ô đầu.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Bổ thận dương TW3 đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này