Thuốc Bổ thận dương - Nam Dược
Chính sách khuyến mãi
Sản phẩm chính hãng
Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.
Cam kết hàng chính hãng
Thông tin dược phẩm
Video
Các dạng quy cách đóng gói: (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)
Thuốc Bổ thận dương được sản xuất từ các hoạt chất Thục địa , Sơn thù, sơn dược, phục linh, trạch tả, mẫu đơn bì, phụ tử chế, quế với hàm lượng tương ứng
Mô tả Mẫu đơn bì (Vỏ rễ) hoạt chất của Thuốc Bổ thận dương
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Mẫu đơn bì (Vỏ rễ).
Tên khác: Cortex Paeoniae suffruticosae; Cortex Moutan; Đan bì; Đơn bì; Đơn căn; Bạch lượng kim; Thử cô; Lộc cửu; Mộc thược dược; Mẫu đơn căn bì; Hoa tướng; Huyết quỷ.
Tên khoa học: Paeonia suffruticosa Andr.
Họ: Paeoniaceae.
Đặc điểm tự nhiên
Mẫu đơn là cây sống lâu năm, cao từ 1-1,5 m, rễ thường phát triển thành củ. Lá mọc so le với nhau, mỗi lá thường chia thành 3 lá chét, riêng lá chét giữa chia thành 3 thuỳ. Mặt trên lá màu xanh, mặt dưới lá màu trắng nhạt vì có lông phủ lên. Hoa mọc đơn độc ở đầu mỗi cành, kích thước rất to, đường kính có thể đạt tới 15-20 cm, màu đỏ, tím hoặc trắng, có mùi hương gần giống mùi hương của hoa hồng. Cuống hoa dài 6-10 cm.
Mẫu đơn bì (vỏ rễ) hình ống hoặc nửa hình ống, có khe nứt dọc, hai mép thường cuộn cong vào trong hoặc mở ra, dài 5-20 cm, đường kính 0,5-1,2 cm, dày 0,1-0,4 cm. Mặt ngoài màu nâu hay vàng nâu, có nhiều lỗ bì nằm ngang và vết sẹo rễ nhỏ, nơi tróc vỏ bẩn, có màu phấn hồng. Mặt trong của vỏ màu vàng tro hoặc nâu nhạt, có vân dọc nhỏ, rõ, thường có nhiều tinh thể nhỏ sáng. Chất cứng giòn, dễ gãy. Mặt gãy gần phẳng, có tinh bột, màu phớt hồng. Vị hơi đắng và se. Mùi thơm đặc biệt.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây Mẫu đơn nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó được di thực sang châu Âu làm cây cảnh. Tại các nước này hoa nở vào khoảng tháng 5-7, ra quả vào khoảng tháng 7-8. Tại Việt Nam cây này mới được di thực trong phạm vi thí nghiệm ở vùng khí hậu mát.
Trước đây vào ngày gần Tết, nước ta có nhập từ Trung Quốc cả cây vào làm cảnh với giá rất cao. Gần đây thì ít nhập cây làm cảnh, mà chỉ nhập vỏ cây dùng làm thuốc. Hiện nay, điều kiện để di thực và giữ giống tốt hơn.
Tại Trung Quốc, vỏ rễ thu hoạch ở những cây đã trồng được 3-5 năm. Vào khoảng tháng 9 người ta đào lấy rễ, rửa sạch, xắt dọc vỏ rễ và phơi khô. Cách khác là trước khi xắt vỏ có thể dùng dao hay mảnh thủy tinh cạo sạch vỏ rồi mới khạy lấy vỏ phơi khô. Cách trên cho vị nguyên đơn bì, cách dưới cho vị quát đơn bì (mẫu đơn cạo vỏ). Có cách sơ chế khác là sao cho vàng đen gọi là mẫu đơn bì thán mới dùng.
Bộ phận sử dụng
Vỏ rễ cây.
Mô tả Phụ tử hoạt chất của Thuốc Bổ thận dương
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Phụ tử.
Tên khác: Xuyên ô, Thảo ô, Hắc phụ, Cách tử, Thục phụ tử.
Tên khoa học: Radix Aconiti lateralis praeparata, Aconitum fortunei Hemsl. Ranunculaceae (họ Mao lương).
Đặc điểm tự nhiên
Ô đầu là loài cây thảo cao khoảng 1 m. Thân thẳng đứng, tiết diện thân hình trụ, cây ít phân nhánh. Lá ô đầu mọc so le, có gân hình chân vịt. Mép lá răng cưa to, lá già xẻ từ 3 đến 5 thùy không đều nhau. Mặt trên và mặt dưới đều có lông, mặt trên có màu xanh lục sẫm hơn mặt dưới. Hoa mọc thành chùm ở ngọn thân. Hoa to và có màu xanh lam, mọc sát nhau. Quả có hạt nhiều, trên mặt có nhiều vảy nhỏ. Mùa hoa quả vào tháng 10 đến tháng 11.
Phụ tử là củ từ rễ nhánh của cây ô đầu.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây ô đầu phân bố chủ yếu ở Bắc bán cầu, Ấn Độ, Trung Quốc. Tại Việt Nam, cây ô đầu là cây trồng có nguồn gốc từ Trung Quốc nhập về và trồng ở Sa Pa (được ngành y tế nhập giống chính thức), hoặc do cộng đồng người Hoa sống ở huyện Quản Bạ và Đồng Văn (Hà Giang) tự đem từ bên kia biên giới về trồng.
Ngoài ra, cũng có tài liệu cho rằng ô đầu mọc hoang ở Lào Cai, Hà Giang, Nghĩa Lộ (theo Võ Văn Chi, 1977). Thực tế, người ta phát hiện ô đầu mọc hoang nhiều tại thung lũng Tà Cố Y (Mù Cang Chải).
Ô đầu thích nghi ở vùng ôn đới ẩm, khí hậu mát mẻ của vùng nhiệt đới núi cao và ưa sáng, có thể chịu bóng. Cây có thể trồng và nhân giống từ hạt hoặc từ phụ tử.
Ô đầu rất độc, phải chế trước khi dùng.
Diêm phụ
Diêm là muối, phụ là phụ tử, tức là phụ tử chế muối. Phụ tử lựa chọn rễ nhánh to, bỏ rễ con, rửa sạch và cho vào vại, thêm magnesi clorua, muối ăn, nước theo tỷ lệ 100 kg phụ tử, 40 kg magesi clorua, 30 kg muối, 60 lít nước. Ngâm khoảng 10 ngày, trong thời gian đó cứ vớt ra phơi khô vào ban ngày và đêm ngâm nước.
Thỉnh thoảng thêm magnesi clorua, muối ăn, nước để đảm bảo nồng độ ban đầu. Sau cùng, vớt ra và phơi nắng đến khi có muối trắng kết tinh bên ngoài củ, lúc này muối đã thấm vào giữa củ. Trước khi dùng, cắt mỏng phụ tử, rửa đến khi hết vị cay tê, phơi hoặc sấy khô để dùng dần.
Hắc phụ
Phụ tử lựa chọn rễ nhánh to trung bình, bỏ rễ con, rửa sạch và cho vào vại, thêm magnesi clorua, nước theo tỷ lệ 100 kg phụ tử, 40 kg magesi clorua, 20 lít nước. Sau khi đun sôi 2 - 3 phút, lấy ra rửa sạch, thái mỏng rồi ngâm vào magesi clorua và nước. Tiếp theo thêm đường đỏ và dầu hạt cải, sao tẩm đến khi có màu nước chè đặc. Trước khi dùng, rửa đến khi hết vị cay tê, phơi hoặc sấy khô để dùng dần.
Bạch phụ
Phụ tử lựa chọn rễ nhánh nhỏ, rửa sạch và cho vào vại, thêm magnesi clorua, nước ngâm vài ngày. Sau đó, đun tới chín giữa củ, bóc vỏ và thái mỏng. Trước khi dùng, rửa đến khi hết vị cay tê, phơi hoặc sấy khô để dùng dần.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận dùng của phụ tử là rễ nhánh của cây ô đầu.
Mô tả Phục Linh hoạt chất của Thuốc Bổ thận dương
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt: Phục linh
Tên khác: Bạch phục linh; Bạch linh; Phục thần
Tên khoa học: Poria cocos Wolf (Pachyma hoelen Rumph), thuộc họ Nấm lỗ Polyporaceae.
Đặc điểm tự nhiên
Phục linh là loại nấm mọc ký sinh hay hoại sinh trên rễ cây thông. Sở dĩ người ta gọi tên loại nấm này vì cho rắng Phục linh là linh khí của cây thông nấp ở dưới đất.
Quả thể hình khối to không đều, lớn, nhỏ không đồng nhất, có thể nặng tới 5kg, nhỏ cũng có thể bằng nắm tay, mặt ngoài màu xám đen, nhăn nheo có khi hình bướu, cắt ngang sẽ thấy mặt lổn nhổn màu trắng (bạch phục linh) hoặc hồng xám (xích phục linh), có khi có rễ thông ở giữa nấm.
Bột Phục linh màu trắng xám, chủ yếu chứa các khuẩn ty, bào tử, cuống đám tử.
Phân bố, thu hái, chế biến
Phục linh thường phân bố ở vùng có khí hậu lạnh, mọc trong rừng có thông, nằm sâu dưới 1 lớp mặt đất 20 – 30cm. Thường phát triển ở vùng núi hướng về phía mặt trời, khí hậu mát mẻ, thoáng, độ cao trung bình, không bị gió bấc thổi, chất đất cát mịn tơi xốp.
Ở Việt Nam, đã tìm thấy Phục linh ở các rừng thông tỉnh Hà Giang, Thanh Hóa, Gia Lai, Lâm Đồng. Hiện đang được nghiên cứu ở trồng ở Sapa, Tam Đảo.
Tuy nhiên, thực tế vị thuốc chưa được đưa vào nuôi trồng và khai thác thực sự rộng rãi nên đa số nấm Phục linh trên thị trường được nhập khẩu từ Vân Nam - Trung Quốc.
Thu hoạch nấm vào khoảng tháng 10 đến tháng 11 sau tiết lập thu, hoặc từ tháng 7 – 9.
Có 2 cách sơ chế theo kinh nghiệm như sau:
-
Sau khi đào lên, nấm được đem ngâm nước một ngày, rửa sạch, gọt bỏ vỏ, đồ lên, thái mỏng khoảng 2 – 3mm, phơi hay sấy khô. Khi dùng thì lấy sắc với thuốc thang.
-
Sau khi đào lên, nấm được loại bỏ đất cát, chất đống cho ra mồ hôi rồi rải ra chỗ thoáng gió cho se bề mặt, tiếp tục chất đống, ủ vài lần cho đến khi khô nước và bề mặt trở nên nhăn nheo, phơi âm can cho đến khô. Hoặc Phục linh tươi đem thái lát và phơi âm can ở nơi thoáng gió.
Bộ phận sử dụng
Toàn cây nấm Phục linh đều có thể sử dụng làm thuốc:
-
Phục linh bì: Là lớp ngoài Phục linh tách ra, kích thước lớn, nhỏ, không đồng nhất. Mặt ngoài có màu từ nâu đến nâu đen, mặt trong màu trắng hoặc nâu nhạt. Chất tương đối xốp và hơi đàn hồi.
-
Phục linh khối: Sau khi tách lớp ngoài, phần còn lại được thái, cắt thành phiến hay miếng, kích thước không đồng nhất, màu trắng, hồng nhạt hoặc nâu nhạt.
-
Xích phục linh: Là lớp thứ hai sau lớp ngoài, có màu hồng nhạt hoặc nâu nhạt.
-
Bạch phục linh: Là phần bên trong, có màu trắng.
-
Phục thần: Là phần nấm Phục linh ôm đoạn rễ thông bên trong.
Thông tin các hoạt chất còn lại trong Thuốc Bổ thận dương đang được ThuocViet cập nhật
Sản phẩm liên quan
Sản phẩm cùng hãng
Bình luận
Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này