Thuốc Bổ huyết Bảo Phương

Liên hệ

Chính sách khuyến mãi

Sản phẩm chính hãng

Chuyển phát toàn quốc: 25.000đ/đơn (dưới 2kg). Đơn thuê ship ngoài khách tự thanh toán phí ship.

Cam kết hàng chính hãng


author-avatar
Được viết bởi
Cập nhật mới nhất:

Thông tin dược phẩm

Nhà sản xuất:
Số đăng ký:
V50-H12-16
Dạng bào chế:
Hộp
Đóng gói:
Hộp 1 lọ x 120 ml
Xuất xứ:
Việt Nam
Đơn vị đăng ký:
sản xuất thuốc YHCT Bảo Phương

Video

Với mã đăng ký V50-H12-16, Hộp Thuốc Bổ huyết Bảo Phương với thành phần là hoạt chất/dưỡng chất tốt cho sức khỏe Mỗi 120 ml cao lỏng chứa dịch chiết từ các dược liệu: Đương quy 30g, Hoàng kỳ 120g (hàm lượng đã được nghiên cứu cân đối cho phù hợp) là một trong nhiều loại thuốc được tin dùng hiện nay. Cũng như các sản phẩm khác trên Thuocviet, thì Thuốc Bổ huyết Bảo Phương là loại thuốc có nguồn gốc rõ ràng, và đã được cấp phép hoạt động vỡi mã cấp phép là V50-H12-16. Cụ thể, thuốc được sản xuất thuốc YHCT Bảo Phương kê khai trong nước đồng thời nộp hồ sơ xin cấp phép lưu hành (được tiếp nhận vào ngày 28/11/2017). Sản phẩm được sản xuất từ các công ty hoặc hãng dược phẩm uy tín Bảo Phương Việt Nam. Giá bán lẻ của Thuốc Bổ huyết Bảo Phương hiện vẫn đang được cập nhật (giá bán buôn được kê khai với cục quản lý dược là 96800 vnđ/Hộp).

Các dạng quy cách đóng gói: Hộp 1 lọ x 120 ml (lưu ý: các dạng đóng gói khác nhau sẽ có mức giá khác nhau)

Thuốc Bổ huyết Bảo Phương được sản xuất từ các hoạt chất Mỗi 120 ml cao lỏng chứa dịch chiết từ các dược liệu: Đương quy 30g, Hoàng kỳ 120g với hàm lượng tương ứng

Mô tả Đương quy (Ngọn, Rễ, Thân) hoạt chất của Thuốc Bổ huyết Bảo Phương

Tên gọi, danh pháp

Tên Tiếng Việt: Đương quy.

Tên khác: Vân quy, Tần quy, Xuyên quy, Nhân sâm cho phụ nữ.

Tên khoa học: Angelica sinensis (Oliv) Deils. Họ: Apiaceae (Hoa tán).

Tên đồng nghĩa: Angelica polymorpha Maxim. var. sinensis Oliv.

Đặc điểm tự nhiên

Hoa đương quy mọc thành từng chùm màu trắng

Đương quy Trung Quốc (Angelica sinensis)

Đương quy Trung Quốc là loài cây nhỏ, sống lâu năm. Cây có thể cao từ 40 đến 80cm, hoặc có thể cao đến 1m khi cây có hoa. Thân cây màu tím, có dạng hình trụ, có rãnh dọc. Lá mọc so le, 2 đến 3 lần xẻ lông chim, cuống dài 3 đến 12 cm, gốc phát triển thành bẹ to, đầu nhọn, 3 đôi lá chét. Đôi lá chét phía dưới có cuống dài, đôi lá chét phía trên đỉnh không có cuống; lá chét lại xẻ từ 1 đến 2 lần nữa, mép chia thùy và răng cưa không đều, phía dưới cuống phát triển dài gần một nửa chiều dài cuống, ôm lấy thân. Rễ cây đương quy rất phát triển.

Cụm hoa mọc ở ngọn hợp thành tán kép gồm 12 đến 40 hoa. Cụm hoa dài ngắn không đều, hoa nhỏ có màu lục nhạt hoặc màu xanh trắng.

Quả bế dẹt, có rìa màu tím nhạt. Toàn thân nhẵn và có mùi thơm rất đặc biệt.

Mùa hoa quả thường vào khoảng tháng 7 đến tháng 8.

Sinh thái: Đây là loài cây ưa khí hậu ẩm mát vùng núi. Đương quy được nhân giống bằng hạt. Thời gian trồng đến khi có thể thu hoạch là từ 3 năm trở lên.

Phân bố, thu hái, chế biến

Đa phần các giống đương quy đều có nguồn gốc ở vùng ôn đới, như ở Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Cây thường mọc ở các vùng núi cao với khí hậu ẩm mát. Tại Trung Quốc, đương quy được trồng nhiều nhất ở các tỉnh Cam Túc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Thiểm Tây.

Ở nước ta, dược liệu này đang được trồng trong phạm vi nhỏ ở Sapa (tỉnh Lào Cai) hoặc các tỉnh Lai Châu, Hòa Bình, Lào Cai, chưa phổ biến rộng rãi. Đương quy trồng ở Việt Nam cũng phải lựa chọn thời vụ, sao cho mùa gieo hạt và sinh trưởng của cây trùng với thời gian có nhiệt độ thấp nhất trong năm, tuy nhiên chất lượng cây trồng ở vùng đồng bằng có khác so với cây được trồng ở vùng núi cao.

Hằng năm vào mùa thu gieo hạt, cuối thu đầu đông nhổ cây con cho vào hố ở dưới đất cho qua mùa động. Qua mùa xuân lại trồng, đến mùa đông lại bảo vệ. Đến mùa thu năm thứ 3 có thể thu hoạch. Đào rễ về cắt bỏ rễ con, phơi trong nhà hoặc cho vào trong thùng, sấy lửa nhẹ, cuối cùng phơi trong mát cho khô.

Cụm hoa mọc ở ngọn hợp thành tán kép

Bộ phận sử dụng

Chỉ thu hái khi dược liệu trồng được 3 tuổi trở lên, Thời điểm để đào rễ tốt nhất là vào mùa thu. Sau khi thu hoạch, người dân cắt bỏ phần lá và rễ con, giữ lại phần rễ, phơi trong râm hoặc cho vào thùng sấy lửa nhẹ đến khô. Củ to, thịt chắc, dẻo, màu trắng hồng, nhiều tinh dầu, có mùi thơm đặc biệt, vị ngọt sau cay là loại tốt.

Khi dùng thì bào chế như sau: Rửa qua rễ bằng rượu (nếu không có rượu thì rửa nhanh bằng ít nước, sau vẩy cho ráo nước). Ủ một đêm cho mềm, bào mỏng 1mm. Nếu muốn để được lâu, rửa bằng nước và muối; sau đó, phải sấy nhẹ qua lưu huỳnh hoặc đốt xông nóng (không đốt trực tiếp), cho đến khi dược liệu có màu đỏ tươi hay màu vàng kim tuyến, rồi sấy than. Theo kinh nghiệm nhân dân Trung Quốc, không phơi chỗ râm mát (đương quy có màu xanh) và cũng không phơi nắng (mất tinh dầu).

Đương quy được phân thành nhiều loại: Quy đầu rễ chính và một bộ phận cổ rễ, đường kính từ 1,5 đến 4 cm, đầu tù và tròn, còn mang vết tích của lá; quy thân hay quy thoái là phần dưới của rễ chính hoặc là rễ phụ lớn; quy vĩ là phần rễ phụ hay rễ nhánh nhỏ và toàn quy gồm toàn rễ cái và rễ phụ.

Mô tả Hoàng kỳ (Rễ) hoạt chất của Thuốc Bổ huyết Bảo Phương

Tên gọi, danh pháp

Tên tiếng Việt: Hoàng kỳ (Rễ)

Tên khác: Miên hoàng kỳ; Khẩu kỳ; Bắc kỳ và Tiễn kỳ

Tên khoa học: Astragalus propinquus

Đặc điểm tự nhiên

Hai cây hoàng kỳ cho vị thuốc thường được dùng trên thị trường là:

Hoàng kỳ (Astragalus membranaceus (Fish) Bunge):

Đây là loại sống lâu năm, cao 50 – 80cm, rễ cái dài và mọc sâu, rất khó bẻ, đường kính 1 - 3cm, vỏ ngoài màu vàng đỏ hay nâu. Thân cây mọc thẳng, phía trên có chia nhiều cành. Lá kép, mọc so le, dìa lẻ, lá kèm hình 3 cạnh, có từ 6 đến 13 đôi lá chét hình trứng dài từ 5mm đến 23mm, mặt dưới có nhiều lông trắng mịn. Cụm hoa màu vàng tươi được mọc thành chùm ở các kẽ lá, dài hơn lá, gồm khoảng 5 đến 22 hoa. Quả giáp mỏng, dẹt, dài 2 - 2,5cm, đường kính 0,9 - 1,2cm đầu dài ra thành hình gai nhọn, trên quả có lông ngắn, 5 - 6 hạt màu đen hình thận. Mùa ra hoa của cây ở Trung Quốc vào khoảng tháng 6 – tháng 7, mùa ra quả vào khoảng tháng 8 đến tháng 9 (Hà Bắc, Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh).

Hoàng kỳ Mông cổ (Astragalus mongholicus Bunge):

Giống loại Hoảng kỳ ở trên, nhưng khác ở điểm là lá chét nhỏ hơn, có 12 đến 18 đôi lá chét, tràng hoa dài hơn, quả rộng hơn từ 1,1 -1,5cm, không có lông. Mùa ra hoa vào khoảng tháng 6 đến tháng 7, mùa ra quả vào khoảng tháng 7 đến tháng 9, cũng hay gặp ở những nơi có hoàng kỳ.

Hoa hoàng kỳ

Phân bố, thu hái, chế biến

Cho đến nay ta vẫn phải nhập hoàng kỳ của Trung Quốc. Hoàng kỳ mọc hoang ở Trung Quốc, cây thích những vùng đất cát, dễ thoát nước. Có thể thu hoạch sau 3 năm tuy nhiên nếu để được sau 6 đến 7 năm thì tốt hơn. Rễ được đào vào mùa thu đem rửa sạch, cắt bỏ phần đầu rễ và rễ con đem phơi hoặc sấy khô.

Hoàng kỳ đã sấy khô

Bào chế:

  • Hoàng kỳ: Loại tạp bẩn; phân loại to, nhỏ, đem rửa sạch, ủ mềm, thái thành phiến dày rồi mang phơi khô.

  • Hoàng kỳ chích mật: Hoàng kỳ đã thái thành phiến, lấy mật ong hòa cùng với một ít nước sôi, trộn lên rồi dùng ủ hoàng kỳ cho ngắm, sao nhỏ lửa cho vàng đến khi sờ không dính tay thì lấy ra để nguội. 10kg hoàng kỳ dùng khoảng 2,5 - 3,0kg mật ong.

Bộ phận sử dụng

Bộ phận sử dụng được của hoàng kỳ là rễ.

Bộ phận dùng của Hoàng kỳ

Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm: Mọi thông tin trên web ThuocViet.Org chỉ mang tính chất tham khảo. Việc sử dụng thuốc phải thông qua hướng dẫn và chỉ định của bác sĩ, người có chuyên môn. Không tự ý dùng thuốc khi không có hướng dẫn, chỉ định.

Sản phẩm liên quan


Sản phẩm cùng hãng

Chủ đề

Bình luận

Bạn hãy là người đầu tiên nhận xét về sản phẩm này

Đánh giá

0
Điểm đánh giá
(0 lượt đánh giá)
0 %
4.00
0 %
3.00
0 %
2.00
0 %
4.00
0 %
1 2 3 4 5
Thêm giỏ hàng
Gọi Tư Vấn Miễn Phí Chat nhanh đặt hàng Chat với Dược Sĩ